bằng chứng chứng tỏ sự lắng đọng của một vài chất độc hại sinh ra trong
quá trình trao đổi chất là nguyên nhân cho kết quả chết người. Khoảng từ
1/4 đến 1/3 tế bào vỏ não của bệnh nhân hoặc có chứa các sợi hoặc biến mất
hoàn toàn.
Ngoài quá trình phá hủy ở các tế bào, Alzheimer còn tìm thấy vô số các
cục hoặc mảng cực nhỏ rải khắp vỏ não, các mảng này không thấm thuốc
nhuộm. Trong những năm sau đó, người ta đã chứng minh được rằng những
chất này được cấu thành từ những phần bị thoái hóa ở những đoạn kéo dài
của dây thần kinh liên lạc được gọi là các sợi axon (sợi trục), tụm lại quanh
một lõi protein beta-amyloid
. Cho tới ngày nay, sự hiện diện không đổi của
những thứ được gọi là mảng lão suy và đám rối là những tiêu chuẩn đầu tiên
dựa vào đó, chẩn đoán hiển vi về căn bệnh Alzheimer được đưa ra.
Tuy nhiên, người ta đã thừa nhận rằng không phải chỉ ở người bị bệnh
Alzheimer mới phát hiện các mảng dạng tinh bột hay các đám rối thần kinh.
Có rất nhiều các bệnh mạn tính khác ở bộ não con người mà trong đó có thể
được xác định một trong hai hoặc cả hai hiện tượng này. Thậm chí trong quá
trình lão hóa thông thường, cả hai dạng cấu trúc này đều có xuất hiện ít nhất
ở một vài chỗ, cho dù hầu như không có số lượng lớn đặc trưng như của
bệnh Alzheimer. Chúng ta sẽ biết nhiều hơn về tiến trình lão hóa não bộ khi
những nguồn gốc các mảng và đám rối của căn bệnh này đã được phát hiện.
Alzheimer đủ thông thái để nhận ra rằng “chúng ta dường như đang đối
đầu với một tiến triển bệnh đặc biệt.” Người dẫn dắt ông, Kraepelin, tiến
một bước xa hơn: Đề cập tới một hiện tượng mới trong tái bản lần thứ tám
cuốn giáo trình của mình vào năm 1910, ông đã đặt tên cho nó là “bệnh
Alzheimer”. Kraepelin có vẻ không chắc chắn về tầm quan trọng của lứa
tuổi tương đối trẻ ở bệnh nhân Alzheimer, bởi vì thực tế là bệnh sử của nó
tương tự với bệnh sử của những người trước đó đã được xếp vào bệnh mất
trí vì lão suy. Ông viết: “Ý nghĩa lâm sàng của bệnh Alzheimer vẫn chưa rõ
ràng. Mặc dù các phát hiện qua giải phẫu đã gợi ý rằng căn bệnh này có liên
quan tới dạng vô cùng nghiêm trọng của chứng mất trí vì lão suy, nhưng một
vài trường hợp lại đi ngược lại điều này; cụ thể là thực tế căn bệnh có thể