Mặc dù các bác sĩ điều trị am hiểu đều hiểu rõ rằng các tiêu chí về tuổi tác
vẫn luôn có những ranh giới mờ nhạt, hội chứng này vẫn tiếp tục được gọi là
chứng mất trí tiền lão suy (presenile dementia) của bệnh Alzheimer trong
hàng thập kỉ. Lần đầu tiên tôi biết tới căn bệnh này là khi bắt gặp cái tên đó
trong các giáo trình suốt những năm học ở trường y vào những năm 1950.
Quá trình “chứng mất trí tiền lão suy của bệnh Alzheimer” được chuyển
biến chính xác hơn thành “chứng mất trí lão suy thuộc típ Alzheimer” là một
câu chuyện kể về sự tiến triển của văn hóa sinh y học trong 1/3 cuối của thế
kỉ XX. Nói như vậy, tôi muốn nhắc tới sự kết hợp giữa khoa học, sự can
thiệp của chính phủ, và một yếu tố có lẽ được hiểu đúng nhất qua cụm từ
bảo vệ người dùng. Trong sáu mươi năm sau công trình ban đầu của
Alzheimer, bằng chứng được tích lũy chậm chạp, có rất ít hoặc không có căn
cứ vững chắc nào để phân biệt giữa lão suy với các hình thức tiền lão suy
của căn bệnh khi cả hai đều được đặc trưng bởi cùng biểu hiện bệnh qua
kính hiển vi. Sau khi cuối cùng vấn đề cũng được bàn luận nghiêm túc ở hội
nghị năm 1970 về bệnh Alzheimer và các bệnh liên quan, đã bắt đầu xuất
hiện sự nhất trí về mặt khoa học rằng cứ khăng khăng giữ lấy cách phân biệt
tùy tiện như vậy không chỉ sai lầm mà còn chệch hướng.
Một trong những tác động hiển nhiên của quan điểm vừa thay này là việc
đưa một số lượng vô cùng lớn các bệnh nhân cao tuổi và gia đình của họ vào
phạm vi chẩn đoán. Khi các mối quan tâm nghiên cứu được khích lệ, các
nhà khoa học khá đúng đắn khi bắt đầu kêu gọi gây quỹ và tìm kiếm nó từ
các nguồn của chính phủ. Ở Mĩ, điều này đồng nghĩa với việc lôi kéo Viện
Sức khỏe Quốc gia (NIH) và kêu gọi mọi sự ủng hộ của những người cao
tuổi có ảnh hưởng chính trị. Việc hình thành Viện Lão hóa Quốc gia (NIA)
là kết quả tự nhiên của quá trình này. Sự kết hợp những nỗ lực giữa các nhà
khoa học, NLA, và những người chăm sóc đã dẫn tới việc hình thành
ADRDA. Kết quả của tất cả những nỗ lực đó là ngân sách nghiên cứu về
bệnh Alzheimer ở Mĩ năm 1989 đã gấp khoảng tám trăm lần so với chỉ mười
năm trước đó.