chưa cao, ông đã phải dựa vào những hình ảnh thô để tiến hành các quan sát
của mình. Thế nhưng, những phát hiện thật đáng chú ý:
Các nếp cuộn của bộ não bị teo lại, tách rời khỏi nhau, nông hoặc phẳng dẹt, bị ép và nhỏ, đặc
biệt ở vùng trán. Không hiếm trường hợp một hoặc hai nếp cuộn ở chỗ lồi lên của não bộ bị xẹp
xuống, teo lại, và hầu như bị phá hủy, còn khoảng trống thì chứa đầy huyết thanh.
Theo đó, Esquirol đã xác định được quá trình teo não bộ lý giải cho sự sụt
giảm trí tuệ. Những quan sát của ông sau này được các điều tra viên xác
nhận lại nhiều lần. Tuy nhiên, các phân tích bằng kính hiển vi thì phải đợi
đến các nghiên cứu của Alois Alzheimer
Khoa học y tế đã trải qua nhiều thay đổi sâu rộng trong bảy thập kỉ kể từ
những thành tựu của Esquirol tới những thành quả của Alzheimer, nhưng
không có gì quan trọng hơn sự phát triển của kính hiển vi có độ phân giải
cao. Việc sử dụng khéo léo hệ thống quang học mới của loại kính này cho
phép các nhà khoa học tại các trường y ở Đức thu được nhiều phát hiện lớn
lao ở nửa sau thế kỉ XIX và thập kỉ đầu thế kỉ XX. Chính trong truyền thống
sử dụng kính hiển vi một cách tỉ mỉ của người Đức, Alois Alzheimer đã tiến
hành nghiên cứu về chứng mất trí.
Ban đầu Alzheimer bắt đầu sự nghiệp của mình như một bác sĩ điều trị
quan tâm tới các căn bệnh về thần kinh và tâm thần, nhưng ông lại được đào
tạo kĩ càng về các phương pháp phòng thí nghiệm. Vốn là người có uy tín ở
lĩnh vực khám chữa chứng mất trí do lão hóa, và bắt đầu được biết đến qua
những mô tả rõ ràng về bệnh tích vi thể
của mình, ông được Emil Kraepelin
– một nhà tiên phong về tâm thần học thực nghiệm – mời tới làm việc tại
Đại học Heidelberg năm 1902. Khi Kraepelin được mời tới Đại học Munich
năm sau đó để đảm nhận khoa mới về nghiên cứu và điều trị, ông đã đưa
Alzheimer (khi đó 39 tuổi) theo mình. Kỹ năng của Alzheimer cùng với việc
sử dụng các kỹ thuật nhuộm màu mô mới phát triển cho phép ông xác định
những thay đổi trong cấu trúc tế bào đi liền với bệnh giang mai, chứng múa
giật Huntington (Huntingtons chorea), chứng xơ cứng động mạch, và tình
trạng lão suy. Có lẽ đặc điểm khác biệt nhất trong công trình của Alzheimer
là, dựa trên kinh nghiệm của chính ông với các bệnh nhân, ông có khả năng