nhiên, HIV lại phủ bên ngoài lớp màng protein bằng một lớp hydrat-cacbon,
nói cách khác, nó trở thành một virus đội lốt vi khuẩn. Kiểu ngụy trang quỷ
quyệt này thành công trong việc làm giảm sản sinh kháng thể. Như thể tất cả
những điều này vẫn còn chưa đủ, HIV biến đổi rộng khắp, cho phép nó tự
biến mình thành một loài có phần khác biệt nếu phản ứng kháng thể của cơ
thể hoặc một loại thuốc chống virus mới bằng cách nào đó vượt qua được
những chướng ngại đặt ra trước nó.
Với tất cả những khó khăn này, cộng thêm thực tế là HIV tiêu diệt trụ cột
chính của hàng phòng thủ của cơ thể bằng cách phá hủy các tế bào lympho
mà nó sống bên trong, quả là có lý do để nản lòng thối chí. Gần như tuyệt
vọng, các nhà nghiên cứu bắt đầu tiến hành các đánh giá trong phòng thí
nghiệm trên nhiều loại thuốc khác nhau mà họ nghĩ có thể có khả năng
chống lại được loại virus giỏi lẩn tránh này. Khi đối mặt với thực tế rằng,
chính sự hai mặt của HIV sẽ ngăn cản sự phát triển sớm của vắc-xin nhằm
huy động khả năng miễn dịch của chính cơ thể, các nhà khoa học đã chọn
phương pháp tương tự với phương pháp họ từng sử dụng để chống lại những
bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn để chống lại AIDS: Họ bắt đầu tìm kiếm các
dược chất hoạt động tương tự như thuốc kháng sinh, bằng cách tiêu diệt sinh
vật lây bệnh hoặc ngăn ngừa sự sinh sôi của nó mà không dựa vào hệ miễn
dịch như tuyến phòng thủ hàng đầu.
Một vài chất được kiểm tra từng được dự định dùng cho những mục đích
khác, cho thấy có hiệu quả hạn chế, và lại được đem xếp lại trên giá. Khi có
thêm hiểu biết về những đặc điểm cụ thể của virus này (đặc biệt là sau khi
HIV trở nên có sẵn dưới dạng có thể dùng trong phòng thí nghiệm vào năm
1984), việc tập trung hơn vào nghiên cứu các hợp chất hiệu quả trở nên khả
thi hơn. Cuối mùa xuân năm 1985, ba trăm loại thuốc đã được thử nghiệm
tại Viện Ung thư Quốc gia, và mười lăm loại trong số đó được phát hiện có
khả năng ngừng việc tái sản sinh HIV trong ống nghiệm. Hứa hẹn nhất trong
số chúng là một chất ban đầu được mô tả như một loại thuốc trị ung thư vào
năm 1978, với công thức hóa học 3-azido, 3-deoxythymidine, hay AZT
(thường được gọi là zidovudine
). AZT đã được thử nghiệm cho bệnh nhân
đầu tiên vào ngày 3 tháng Bảy năm 1984, các nghiên cứu lâm sàng trên diện