11.
HY VỌNG VÀ BỆNH NHÂN UNG
THƯ
Bài học quan trọng hơn cả mà một bác sĩ trẻ học được là lời khuyên rằng
anh ta không bao giờ được cho phép các bệnh nhân của mình đánh mất hy
vọng, thậm chí cả khi rõ ràng là họ sắp chết. Ngầm ẩn trong lời khuyên
thường xuyên được nhắc lại đó là kết luận rằng, nguồn hy vọng của bệnh
nhân chính là vị bác sĩ và những lời an ủi anh ta đưa ra; do đó, chỉ bác sĩ
mới có khả năng trao hy vọng, kìm giữ hoặc thậm chí là tước đoạt nó. Có
nhiều phần sự thật trong một giả thuyết như vậy, nhưng đó không phải là
toàn bộ câu chuyện. Trên cả cơ quan y tế – và thậm chí còn vượt quá cả
năng lực của bác sĩ ở cơ quan đó, bất kể anh ta có nhân từ tới đâu – chính là
quyền lực hợp pháp thuộc về người bệnh và những người yêu quý họ. Trong
chương này và chương sau, tôi sẽ viết về những người bị ung thư giai đoạn
cuối, một vài hy vọng của họ, tôi đã thấy họ khi thăng khi giáng – và thi
thoảng là bị tàn phá hoàn toàn – như thế nào.
Hy vọng là một từ trừu tượng. Thực tế, nó không chỉ là một từ; hy vọng là
một khái niệm khó hiểu, có ý nghĩa khác nhau với mỗi chúng ta trong những
khoảng thời gian và hoàn cảnh khác nhau trong cuộc đời mình. Thậm chí
các chính trị gia cũng biết sức mạnh của nó với tâm trí con người và tâm trí
của các cử tri.
Tìm trên từ điển Webster’s Unabridged
, tôi thấy năm cách hiểu độc lập
về ý nghĩa của danh từ hy vọng, không kể những từ đồng nghĩa. Những ý
nghĩa được kể ra trải rộng từ “cấp độ cao nhất của mong đợi trọn vẹn” tới
mong đợi “mong manh”. Trong một mục từ riêng biệt có một ví dụ về cách