CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Khi bố tôi thức giấc vào bốn giờ sáng, trong nhà hoàn toàn yên ắng. Mẹ tôi
nằm bên ông, gáy khe khẽ. Em trai tôi, đứa con duy nhất còn ở nhà vì em
gái tôi đang ở trại, nằm ngủ say mê mệt, kéo chăn trùm đầu kín mít. Bố tôi,
cũng như tôi, lấy làm lạ sao nó có thể ngủ say đến thế được. Hồi tôi còn
sống, Lindsey và tôi thường hay nghịch bằng cách vỗ tay, thả sách rơi
xuống sàn, thậm chí gõ nắp xoong chan chat xem Buckley có vì thế mà
thức dậy không.
Trước khi ra khỏi nhà, bố tôi còn vào phòng Buckley kiểm lại, khi cảm thấy
hơi thở ấm của em phả vào lòng bàn tay ông mới yên lòng. Rồi ông xỏ đôi
giày đế mỏng, mặc bộ quần áo thể thao nhẹ. Việc cuối cùng là tròng dây
vào cổ con Hoiliday.
Trời còn sớm, đến mức ông nhìn thấy hơi nước phả ra khi thở. Sớm như thế
này ông vẫn có thể coi như vẫn còn là mùa đông. Như thể trời chưa chuyển
mùa.
Việc dẫn chó ra ngoài buổi sáng cho ông cái cớ để đi ngang ngôi nhà của
tên Harvey. Ông chỉ đi chậm lại chút xíu – không ai nhận thấy, trừ tôi hay
tên Harvey, nếu hắn đã thức. Bố tôi chắc chẳn rằng chỉ cần tập trung nhìn
thật kỹ, thật lâu là sẽ có lúc tìm ra bằng chứng ông cần, hoặc trên các khung
cửa sổ, trong lớp sơn xanh phủ lên ván gỗ, hoặc ở lối xe ra vào, đánh dấu
bằng hai tảng đá to sơn trắng.
Đến cuối hè 1974 vẫn không có gì mới trong vụ án mạng mà tôi là nạn
nhân. Không tìm thấy xác. Thủ phạm cũng không. Hoàn toàn không có gì.