gara một vệt ẩm cho tới khi thi thể tôi lạnh cứng. Hắn đã mang máu của tên
trên áo quần và trên lớp da hắn vào trong nhà. Tôi biết căn phòng tắm. Tôi
biết rằng ở nhà mẹ tôi trang trí để đón chào Buckley ra đời sau chúng tôi
nhiều năm, bằng cách dán những chiếc tào chiến nhiều màu dọc thành bốn
bức tường màu hồng nhạt. Trong nhà tên Harvey phòng tắm và bếp sạch
bong không tì vết. Gạch sứ ốp vách màu vàng, còn gạch lót sàn màu xanh
lục. Tầng trên, nơi bên nhà tôi là phòng của Buckley, Lindsey và tôi, thì
bên đó hắn để trống, chẳng trưng bày gì. Hắn có một cái ghế tựa để thỉnh
thoảng ngồi nhìn qua cửa sổ hướng trường trung học, tiếng ban nhạc tập
luyện từ sân cỏ vẳng lại, nhưng phần lớn thời giờ hắn ở tầng trệt, phía sau
nhà, ở trong bếp để ráp nhà cho búp-bê, nghe đài phát thanh trong phòng
khách, hoặc khi nào hứng thì phác họa đồ cho những dự tính bệnh hoạn
như căn hầm hoặc túp lều.
Suốt nhiều tháng chẳng có ai quấy rầy gì hắn về vụ của tôi. Mùa hè năm ấy
họa hoằn lắm hắn mới lại thấy một chiếc xe tuần tra chạy chầm chậm qua
nhà tôi. Hắn khôn ngoan không thay đổi cung cách sinh hoạt thường nhật.
Nếu bất chợt lúc ấy hắn định ra nhà để xe hay thùng thư, hắn vẫn điềm
nhiên bước tới.
Hắn đặt nhiều đồng hồ reo báo giờ. Cái thì báo giờ để hắn kéo mành mành,
cái khác báo giờ để đóng. Sau đó hắn bật hay tắt đèn đóm trong nhà. Thỉnh
thoảng khi một cậu bé đi qua mời mua một phong sôcôla hoặ đặt mua dài
hạn tờ báo ra buổi chiều Evening Bulletin, nhằm giúp gây quỹ cho một
cuộc thi đua trong trường, thì hắn tỏ ra thân thiện, nhưng ở mức quan hệ
mua bán, không gây sự chú ý nào.
Hắn cất giữ một số kỷ vật và hay đem chúng ra đếm. Việc đếm đi đếm lại
tạo cho hắn cảm giác an toàn. Đó là những thứ rất bình thường. Chiếc nhẫn
cưới, bức thư trong phong bì dán kín, một mẩu góp giày, cặp mắt kính, viên
tẩy có hình nhân vật trong truyện tranh, lọ nước hoa con con, vòng đeo tay
bằng nhựa, viên đá hộ mệnh – hình bang Pennsylvania – của tôi, mặt dây