hỏi thế Harvey trả lời ngay một cách đầy thuyết phục. Hắn giải thích có đầu
có đuôi, ăn khớp hoàn toàn đến nỗi họ không nghĩ hắn sẽ bỏ trốn – nói cho
đúng thì vì ngay từ đầu họ không hề nghi hắn là kẻ sát nhân.
“ Chà cô bé đáng thương đó”, hắn nói. Hắn đặt những ngón tay trên đôi
môi mím lại. Hắn quay sang lật các trang trong tập vẽ, cho tới chỗ có bức
họa rất giống bức mà Lindsey đã lấy.
“ Đây, có phải vức hình kia giống như bức này không?” Hai cảnh sát viên –
giờ trở thành khán giả của hắn – gật đầu. “ Tôi từng hình dung thử xem sự
vụ xảy ra thế nào”, tên Harvey bộc bạch. “Tôi xin thú nhận là tính kinh dị
của vụ đó quả tình đã ám ảnh tôi mãi. Tôi nghĩ rằng cả vùng này ai cũng
vắt óc nghĩ cách làm sao phòng ngừa những vụ tương tự. Băn khoăn tự hỏi
vì sao họ không hề nghe, cũng chẳng hề thấy gì hết. Ý tôi muốn nói là cô
bé kia chắc chắn phải có gào thét chứ”.
“Thế này nhé”, hắn vừa nói với hai viên cảnh sát vừa chỉ cây bút lên bản
vẽ. “Xin lỗi, nhưng tôi có thói quen suy nghĩ bằng sơ đồ xây cất, thế nên
sau khi nghe kể ở cánh đồng ngô có dấu máu, rồi đấy ở chỗ đó phải xới
tung lên, tôi nghĩ có lẽ…” Hắn nhìn họ, thăm dò ánh mắt. Cả hai viên chức
chăm chú lắm nghe. Họ muốn nghe hắn nói tiếp. Đến nay cảnh sát chẳng
tìm ra được dấu vết nào, tử thi cũng không, manh mối chẳng có. Biết đâu
tay đàn ông kỳ dị này có một giả thiết họ có thể dùng được. “Thế này nhé,
kẻ gây ra vụ này hẳn đã xây gì đó ngầm dưới đất, một cái hố chẳng hạn, và
xin thú thật là từ đó tôi mới nghĩ tới nghĩ lui, thêm chi tiết này nọ, theo
cách tôi vẫn phác họa nhà cho bup-bê, thế nên tôi vẽ thêm ống khói và
ngăn kệ, nói cho cùng, cũng vì thói quen thôi”. Hắn ngưng nói một lúc.
“Tôi có thì giờ vì ở có một thân một mình”.
“Vậy ông có rút được kết luận gì không?” một viên cảnh sát hỏi