thì giờ phân tích cặn kẽ hay quyết tâm gạt sang một bên.
Mẹ tôi lái đoạn đường ngắn từ siêu thị tới khu thương xá, dắt Buckley đi
qua nhiều lượt cửa kính đến một bãi hình tròn ở tầng dưới, nơi các ông bố
bà mẹ có thể gửi con chơi ở đấy trong khi đi mua sắm
Buckley thích mê. “Sân làm trò xiếc! Con chơi được không?” nó hỏi, khi
thấy đám trẻ cùng trang lứa đang từ giàn leo nhảy xuống rồi nhào lộn trên
nền nhà có lót lớp đệm cao su.
“Con thích chơi lắm hả, cưng?”, bà hỏi cậu con.
“Thích lắm”, nó đáp.
Bà đóng vai bà mẹ phải nhượng bộ con. “Thôi được”, bà nói. Nó liền chạy
ào tới chiếc cầu trượt bằng sắt màu đỏ. “Ngoan nhé!” bà gọi với theo.
Trước giờ bà chưa từng cho phép nó chơi khi bà không có mặt tại chỗ để
trông chừng.
Bà cho nhân viên trông trẻ ở sân chơi biết tên con mình, bảo là bà đi chợ
trong siêu thị cạnh tiệm Wanamaker ở tầng dưới.
Vào thời điểm tên Harvey trình bày với hai viên cảnh sát hắn đã thử tưởng
tượng tôi có thể bị giết theo cách nào thì mẹ tôi đang đứng trong tiệm tạp
phẩm rẻ tiền của công ty Spencer’s, chợt bà cảm thấy có bàn tay chạm nhẹ
vào sau vai. Bà quay lại, thấy nhẹ người sau thời gian đứng đợi, song chỉ
nhìn thấy lưng ông Len Fenerman đang tìm lối đi về hướng cửa ra. Mẹ tôi
đi theo ông, ngang qua những chiếc mặt nạ sơn dạ quang, những quả bóng
màu đen vẽ mặt trừng trợn, những loại móc chìa khóa hình một lũ quỷ tóc
xù và một cái đầu lâu to tướng răng nhe nhăn nhở.