Cô con gái thầy mất một năm rưỡi sau khi tôi chết, vì bệnh bạch cầu, nhưng
tôi chưa từng gặp cô ấy trên thiên đường của tôi.
Kẻ giết tôi là một tay hàng xóm. Mẹ tôi thích loại hoa hắn trồng dọc hàng
rào, bố tôi có lần trò chuyện với hắn về phân bón. Kẻ giết tôi cho rằng chỉ
những chác cổ điển, lấy vỏ trứng, bã cà-phê đem bón, như mẹ hắn từng
làm, theo lời hắn kể, mới làm tốt đất. Bố tôi trở vào nhà cười cười, pha trò
về khu vườn của hắn, đẹp thật, nhưng mỗi đợt trở trời nóng gắt mùi hôi thối
bốc lên đến tận mây xanh.
Thế nhưng vào hôm mồng 6 tháng Chạp năm 1973 thì trời đổ tuyết, từ
trường về nhà tôi đi lối tắt băng qua cánh đồng ngô. Trời đã sẩm tối vì mùa
đông ngày ngắn hơn; bây giờ tôi vẫn còn nhớ những thân ngô đổ ngang đổ
ngửa làm tôi đi đứng khá vất vả. Bông tuyết rơi nhẹ, như những bàn tay tí
hon lất phất bay, tôi thở bằng mũi cho đến lúc nước mũi ròng ròng, đành há
miệng để thở. Còn cách chỗ Harvay đứng đọ hai thước, tôi thè lưỡi hứng
một bông tuyết nếm thử.
"Đừng hoảng hồn nhé." hắn lên tiếng.
Đương nhiên là tôi phải sợ hết hồn rồi vì đang ở giữa cánh đồng ngô, mà
trời thì tối mịt. Khi chết rồi, tôi nhớ lại rằng trước đó có ngửi thấy thoang
thoảng mùi nước hoa Cô-lôn(1) nhưng tôi không chú ý hoặc tưởng rằng
mùi ấy bay ra từ một trong các ngôi nhà phía trên kia.
"Chú Harvey đó à," tôi nói.
"Cháu là gái lớn nhà Salmon phải không?"
"Vâng ạ."