không có gì sáng sủa lắm. Vả chăng, mặc dù không đọc được các thông
cáo, tôi cũng đã ý thức được tình trạng này bởi vì trong mọi giai đoạn tổ
chức và hoạt động, tôi đều phải đương đầu với sức đề kháng bền bỉ. Mặt
khác, không một cơ quan nào khi được yêu cầu của tôi, tỏ ra mau lẹ cung
cấp cho tôi đủ người và dụng cụ cần thiết. Họ cho tôi theo kiểu nhỏ giọt.
Thoạt tiên, toán cảm tử được thả dù xuống Iran đã thu đạt được một vài kết
quả, thành thật mà nói, còn rất khiêm nhường. Sau khi liên lạc thành công
với các bộ lạc nổi loạn, họ đã hoàn thành sứ mạng đầu tiên trong giới hạn
khả hữu càng ngày càng thu hẹp, bởi vì chúng tôi không thể đưa thêm lực
lượng tăng cường cũng như tiếp liệu đến như họ yêu cầu. Chúng tôi luôn
luôn thiếu hụt loại phi cơ nổi tiếng Junker 290, loại duy nhất của Đức có
thể hoàn thành các chuyến bay xa như vậy mà không cần tiếp tế nhiên liệu.
Trong khoảng thời gian đó, khoá huấn luyện đặc biệt Oranienbourg đã tổ
chức một toán cảm tử thứ nhì gồm sáu binh sĩ và một sĩ quan. Đến phút
chót, cuộc khởi hành lại bị trì hoãn ngay khi phi cơ sắp cất cánh vì bị trục
trặc. Ngày hôm sau chúng tôi mới biết đây là một trục trặc do trời định.
Thật vậy, một trong các sĩ quan từ Téhéran vừa trốn chạy qua Thổ Nhĩ Kỳ,
từ Constantinople, đương sự đã bảo cho chúng tôi biết thật đúng lúc rằng
trung tâm liên lạc của chúng tôi tại Téhéran đã bị khám phá, tất cả nhân
viên bị bắt ngoại trừ y chạy thoát được.
Trong những điều kiện như thế, hoạ là có điên mới gởi thêm toán cảm tử
thứ nhì bởi vì họ sẽ bị hoàn toàn cô lập, không thể liên lạc được với cả
Téhéran lẫn toán cảm tử đầu tiên. Chúng tôi phải từ bỏ việc theo đuổi chiến
dịch François. Vài tháng sau, các bộ lạc nổi loạn tại Iran cũng bỏ ngang
cuộc chiến đấu, họ để cho binh sĩ của chúng tôi tự ý chọn lựa, hoặc là ở lại
hoặc là trốn chạy. Thế nhưng đối với các quân nhân ít thông thạo ngôn ngữ
địa phương này, cuộc chạy trốn đến biên giới một Quốc gia Trung lập –
Thổ Nhĩ Kỳ - là một hành động tuyệt vọng. Sau đó, tù trưởng các bộ lạc nói
trên bị bắt buộc phải giao các cảm tử quân Đức cho quân đội Anh. Thấy rõ
là sắp bị cầm tù, một sĩ quan đã chọn cái chết. Người còn lại cùng với ba hạ
sĩ quan bị giam trong một trại thuộc khu vực Cận – Đông. Mãi đến năm
1948, cả bốn người mới được thả về Đức.