Sự đàn áp của Pháp đối với sự bất ổn ở các tỉnh ở Trung Kỳ tiếp tục tàn
bạo. Theo báo cáo của mật thám, đến cuối mùa xuân 1931 ít nhất 2.000
người chết, và 51.000 người ủng hộ phong trào bị giam cầm. Các tài liệu
của Đảng bị Pháp tịch thu cho thấy chiều hướng gia tăng sự tuyệt vọng, mất
chí khí và sự ẩu đả lẫn nhau trong nội bộ, nhà cầm quyền địa phương
không ngừng tấn công những người nổi dậy. Như một nhà sử học của Đảng
kể lại sau này:
Ở Quảng Ngãi các cuộc biểu tình thông thường khoàng 300 đến 500
người xảy ra trong những tháng đầu năm 1931… Sau tháng 5-1931, những
cuộc biểu tình bạo lực kèm theo với tử hình những kẻ phản bội. Cuộc biểu
tình lớn nhất xảy ra tại Bồng Sơn, tỉnh Bình Định ngày 23-7. Ba đoàn
người biểu tình, vũ trang bằng dao, gậy và súng, đi dọc quốc lộ, đẵn cây
làm chướng ngại vật, cắt dây điện thoại và đốt ô tô họ gặp dọc đường. Vài
người giàu có bị giết.
Cùng với sự đàn áp phong trào của chế độ thực dân, nạn hạn hán lan
rộng ở các tỉnh Trung Kỳ. Một báo cáo của Pháp viết tháng 7-1931, do mất
mùa, 90 phần trăm dân chúng huyện Nam Đàn (Nghệ An) bị đói. Ngay cả
những người ôn hoà như Bùi Quang Chiêu cũng ghê tởm sự đàn áp hung
bạo của Pháp. Dù các tỉnh Trung Kỳ bấy giờ yên tĩnh, tờ Tribune
Indochinoise - Diễn Đàn Đông Dương - của ông nói, đó là “sự yên lặng
của chết chóc”.
Ngày 12-5-1931, Hilaire Noulens gửi Nguyễn Ái Quốc bài dài phê phán
về tình hình xảy ra ở Đông Dương. Noulens phê bình giới lãnh đạo đảng đi
trệch đường lối chỉ đạo của Cộng sản Quốc tế trong một số mặt. “Nổi dậy”
- đảng dán nhãn cho cuộc nổi dậy còn non yếu chống lại chế độ thực dân -
chẳng có giá trị gì với chủ nghĩa cộng sản và những hành động lật đổ như
bắn vào cảnh sát và những hành động khủng bố cá nhân sẽ chỉ làm tổn
thương phong trào, mang tính anh hùng rơm. Những cuộc họp quá dài và
công tác bí mật thường lỏng lẻo, đồng thời công việc tổ chức trong quần
chúng thường lôi thôi, nhếch nhác. Tuy vậy, Noulens hứa sẽ cố gắng tới
mức tối đa để phong trào cách mạng thế giới chú ý tình hình Đông Dương.