các quan chức địa phương trước đã, thì họ phải chờ. Trong trường hợp ấy, tôi
xin ông vui lòng báo cáo cho tôi biết.
"Chúng ta chỉ có thể đạt được kết quả mỹ mãn, nếu chúng ta đồng lòng
phối hợp chặt chẽ và liên tục, vì lợi ích tối đa của công khố.
Ký tên: Anbe Xarô
Toàn quyền Đông Dương
Nên chú ý rằng lúc đó, trong 1.000 làng đã có 1.500 đại lý rượu và thuốc
phiện, mà trường học thì vẻn vẹn có 10 cái; mỗi năm, người ta đầu độc dân
bản xứ, cả đàn bà lẫn trẻ con, bằng 23 tới 24 triệu lít rượu và hơn 100.000
kilôgam thuốc phiện! Bán những thứ thuốc độc ấy mỗi năm lời gần 130 triệu
phrăng.
Cũng trong thời kỳ ấy, người ta chỉ tiêu cho ngành y tế không đầy
400.000 phrăng và chỉ có 1 triệu phrăng cho ngành giáo dục, nghĩa là cho
công việc xã hội một phần trăm số thu nhập của việc đầu độc, thế không phải
là một chế độ kỳ diệu lắm sao!
Muối là vật phẩm tối cần cho dân chài lưới, thế mà dân An Nam đã phải
đặc biệt xót xa vì muối!
Lúc đầu thuế muối chỉ có 5 xu, rồi đến 3 hào, lên dần đến 5 hào, đến 1
đồng, rồi đến 1 đồng sáu. Trong vòng không đầy bảy năm, thuế muối đã tăng
lên gấp mười lần. Bây giờ họ bắt người làm muối An Nam phải cung cấp
muối cho Nhà nước theo giá 17 xu một tạ. Nhà nước bán lại cho những người
tiêu thụ bản xứ 1 đồng 7.
Kết quả cho An Nam là nghề đánh cá bị phá sản. Cho đến nay ở nhiều
nơi, dân đánh cá và dân làm muối hợp tác với nhau thành phường, nhờ đó họ
làm nước mắm không cần phải vốn. Nhà nước độc quyền giải tán những
phường ấy chẳng chút bồi thường. Mặt khác, giá muối tăng lên quá quắt làm
cho người đánh cá không sẵn vốn không thể mua trữ được đủ số muối cần
thiết cho một chuyến đi cá. Vì thế, phần lớn những người làm cá đã phải bỏ
nghề.