Nghề làm muối trước kia là một công nghiệp phát đạt nhất ở Đông
Dương; người ta đã cố tình làm cho nó suy đồi, chỉ để lại số ruộng muối cần
thiết cho việc ăn uống. Việc xuất cảng muối bị đình chỉ hẳn. Suốt trong thời
kỳ chiến tranh, nước Nhật xin mua muối chẳng được.
Tệ hơn nữa, vì người ta không thể tính được số ruộng muối cần thiết cho
việc ăn uống, thành ra hằng năm nhà đoan lại phải mua muối của Trung
Quốc. Trước kia, An Nam xuất cảng muối (l00.000 tấn trong năm 1896), bây
giờ lại phải nhập cảng để tiêu dùng.
Xưa kia, ở vùng đồng bằng Bắc Kỳ, không có năm nào là hoàn toàn mất
mùa. Khi nước lụt tràn ngập đồng ruộng, thì cá theo nước vào nhiều; người
bản xứ lại làm mùa cá. Bây giờ thì không thể được, vì không có muối. Mặt
khác, dân chúng trước thì ăn quen một thứ muối thôi, bây giờ thì bất cứ thứ
nào, họ cũng phải nhận vậy. Các bạn thử tưởng tượng xem người quen ăn
muối nhỏ trắng bây
giờ phải ăn muối đen khó chịu như thế nào. Hơn nữa muối chuyên chở từ
Nam Kỳ ra Bắc Kỳ phải chịu tiền vận tải khá đắt, nhà đoan liền tăng giá muối
bán cho công chúng. Người ăn phải trả đắt hơn từ 20 đến 25% cho một thứ
muối mình chẳng ưa chút nào.
Kho muối rất ít mà lại ở cách quãng rất xa nhau, nên người bản xứ ở các
làng phải nhờ người Hoa chuyên chở về cho và những người này lại lợi dụng
tự tiện tăng giá muối lên, nhiều ít tuỳ chỗ xa gần.
Khi đặt ra thuế muối, người ta quyết định tư nhân không được tích trữ
quá 15 kilôgam. Để kiểm soát, nhân viên nhà đoan phải khám xét, mà họ
khám xét tuỳ theo sở thích của họ. Chỉ cần có kẻ tố cáo là họ khám xét đảo
lộn cả nhà người ta lên.
Dân chúng khiếp sợ nhân viên nhà đoan đến nỗi khi vừa được tin các
ngài tới, họ liền bỏ cửa bỏ nhà ra đi, mặc cho các ngài muốn làm gì thì làm.
Thấy đàn bà con gái ở nhà, các ngài liền xử sự theo thói của kẻ chiến thắng
trên đất nước chiến bại. (Đại tá Bécna).
Chính sách độc quyền muối nhắc người ta hồi tưởng đến một chính sách
bị nguyền rủa nhất của chế độ cũ ở nước Pháp: thuế muối. Nhưng cái thuế