Nam do thám phong trào, đánh cắp kế hoạch phòng thủ thành phố và chuyển
cho người Pháp. Biết rõ những vùng giàu có nhưng lại phản đối truyền đạo,
đôi khi giáo hội cố ý đưa cha cố về chịu bị ức hiếp để lấy cớ can thiệp và
cướp bóc nhân dân.
ở đâu có cuộc nổi dậy, có khởi nghĩa thì nơi đó cha cố biến thành mật
thám, nhà thờ Chúa biến thành nơi tra khảo. Trong những buổi xưng tội, bọn
cha cố chất vấn người dân quê, doạ nạt họ hoặc hứa hẹn khôn khéo với họ để
lấy tin tức về phong trào và các lãnh tụ. Lễ xưng tội xong, các cha chúng ta
bèn chạy đi tố cáo với nhà chức trách Pháp.
Về mặt kinh tế cũng như về mặt tinh thần, giáo hội đều tỏ ra rất xứng
đáng với Chúa. Lấy danh nghĩa làm việc thiện, người ta tập trung trẻ mồ côi
về Nhà chung, thí cho một bát cơm rồi bắt các em làm việc như tù khổ sai. Có
những cha cố đã bán những em gái mồ côi do họ trông nom, cho những tên
thích đùi non để lấy tiền tiêu. Có cha cố tuyển mộ những người thất nghiệp,
đem đi khai hoang và hứa chia lợi cho họ; nhưng khi ruộng đất đã có thu
hoạch thì bọn cha cố lại thẳng tay đuổi họ đi.
Để bóc lột người bản xứ, giáo hội đã dùng nhiều mánh khóe mà những
thủ đoạn chính như sau:
Trong các cuộc xung đột An - Pháp, người An Nam đi lánh nạn phải tản
cư sang các tỉnh lân cận. Khi họ trở về làng thì đất đai của họ đã bị chiếm
đoạt. Nhân cơ hội loạn lạc, vắng chủ, Nhà chung đã cướp cả văn tự lẫn ruộng
đất của họ.
Những năm mất mùa, Nhà chung cho nông dân vay tiền nhưng bắt họ
phải đưa ruộng đất bảo đảm. Vì lấy lãi cắt cổ nên đến kỳ hạn người nông dân
không trả được nợ, thế là tất cả ruộng nương đều rơi vào tay Nhà chung.
Những tên quan cai trị, thống đốc, toàn quyền cũng ít liêm khiết lắm.
Chỉ cần nắm được ít giấy tờ bí mật về đời tư và có thể chạm đến thanh danh
của họ, thì Nhà chung bèn dùng để làm tiền và đòi hỏi tất cả những điều họ
muốn. Vì vậy mà một viên toàn quyền đã phải nhượng lại cho Nhà chung đến
7.000 hécta đất màu mỡ của dân bản xứ. Dân mất quyền sở hữu, bị đuổi đi và
buộc phải đi ăn xin.