(ào ào gió tây vườn cúc hoa
Nhị tàn hương lạnh bướm khó qua
Nếu xuân năm tới ta làm chúa
Lệnh nở hoa đào khắp xứ gần xa)
Ông cứ nghĩ mãi tới cái ý thơ hào hùng của hai câu cuối Nếu năm sau ta lên
ngôi vua, ta sẽ truyền lệnh cho hoa đào khắp đất nước phải nở hoa cùng
một lúc. Chà! Cái chữ “nhất xứ” dịch ra quốc âm mới khó làm sao. Rồi ông
lại nhớ tới chàng thư sinh tặng chậu. Sao anh ta lại nhắc tới bài thơ Cúc của
Hoàng Sào? Có ý gì đây? Từ một chậu hoa đẹp, đầu óc ông lại chuyển sang
việc triều chính. Đêm ấy, ông mất ngủ.
Tới lúc Nghệ Hoàng ốm người muốn vẽ tranh tứ phụ để ban tặng và nhắc
khéo thái sư Quý Ly, ông tiến cử Phạm Sinh.
Một tháng trời vẽ tranh tứ phụ tại nhà quan thượng tướng, Phạm Sinh được
tiếp xúc với một số người trong trại Mai. Sinh vẽ trong một căn nhà nhỏ ở
khu vườn rộng không ai lai vãng. Hàng ngày chỉ có một tráng sĩ râu rậm
đến đưa cơm và chăm sóc. Anh ta trạc ngoại ba mươi, vạm vỡ, ít nói. Phạm
Sinh cũng ít nói. Hình như thượng tướng cho anh ta đến thăm dò mình.
Sinh nghĩ thầm. Đôi bên đối với nhau rất khách sáo.
- Đệ tên Phạm Sinh, từ miền Hải Đông tới Thăng Long, nghèo túng nên
làm nghề bán chữ qua ngày.
- Tôi là Phạm Tổ Thu, vốn lưu lạc, trong trận đánh Chế Bồng Nga có chút
công nhỏ, nên được thượng tướng thu nhận làm người giúp việc.
Một tối, hai người ngồi uống rượu, ngắm trăng trong vườn. Tổ Thu bảo:
- Mấy bức tranh vừa rồi thấy đã đẹp lắm, sao tiểu huynh lại xé đi?
- Hôm nọ, đệ ngồi ngắm mai với thượng tướng, ngài bảo:
- Mai đẹp cốt ở thưa, không cốt ở rậm; cốt ở gân guốc, xù xì, dãi dầu sương
gió, không cất ở mập mạp trẻ tươi; cốt ở nụ, không cốt ở hoa...” Chơi hoa
còn tìm đến cái thần của hoa, nữa là cầm bút vẽ. Vẽ, bao giờ tìm thấy cái
thần của tranh mới được.
- Đệ nói hay lắm. Xưa kia học kiếm, thầy huynh cũng nói như vậy.
Tổ Thu hào hứng múa bài kiếm loang loáng, làm đám lá cây nhảy múa
rung rinh. Phạm Sinh cũng nổi hứng theo, lấy giấy điều viết một chữ “thần”