tiếng của những hồn xưa, của tổ tiên thần linh trở về; cũng có thể đó là
tiếng của những con thú bị nhốt trong rừng chập chùng, âm u, tầng tầng lớp
lớp, nó phải luồn qua những tầng cây dưới vực thẳm sâu như âm ti, để
trườn trên những vách đá cheo leo, cố trồi lên để húp lấy tí ánh sáng hiếm
hoi, nó vang vang cất tiếng nhưng gió làm tan loãng, chỉ còn nghe thấy
những tiếng u.. u... a...a... Tiếng chiêng buồn nhưng không nức nở, nó tưới
đẫm hồn ta, để dần dần thấm sâu vào tận xương tận tuỷ con người, làm ta
ớn lạnh.
Nguyên Trừng bứt rứt rời xa tiếng chiêng, cho ngựa bước lộp cộp trên con
đường lát đá. Tiếng vó ngựa đẩy lùi tiếng chiêng lại phía sau. Nhưng dù
cho ngựa chạy nhanh, dù cho tiếng vó ngựa vang giòn, những thứ đó cũng
không thể xua tan tiếng chiêng, nó đeo bám riết ráo sau lưng đến tận toà
thành đá.
Chỉ khi đóng sập cánh cửa lim to dầy ở phía sau lưng, Nguyên Trừng mới
trút được sự ám ảnh của tiếng chiêng. Tiếng chiêng chỉ còn là một thanh
âm mơ hồ, lãng đãng đâu đây trước khi lặng tắt.
Trừng vội vã đến thăm em gái trước tiên. Ông vua tí hon Trần An trong bộ
quần áo vàng chóe, đang chơi thơ thẩn ở trước cửa cung điện, thấy Nguyên
Trừng, giang tay chạy ùa đến. Nguyên Trừng ôm cháu, bế lên tay. Cậu bé
nép đầu vào cổ ông bác. Nó nói nhỏ:
- Bác Trừng ơi? An sợ lắm!
- Nào, nào! Bây giờ cháu là vua rồi. Cháu sợ gì cơ chứ?
- Sợ mẫu hậu khóc.
- Mẹ cháu khóc ư?
- Mẹ khóc cả ngày. Mẹ không cười nữa. Đêm qua, mẫu hậu ôm An, rồi
cũng khóc.
Nguyên Trừng lặng im. Chú bé vẫn bi bô:
- An dỗ mẹ, mẹ không nín. Mẹ khóc to hơn.
Rồi ông vua tí hon rón rén, không nói, dẫn ông bác vào trong toà cung điện
nguy nga. Thánh Ngẫu ngồi ủ rũ trong chiếc ghế bành trải nệm gấm. Câu
hỏi đầu tiên của nàng:
- Có phải huynh vừa từ Yên Sinh về không? Trừng gật đầu. Bà hoàng dồn