Trình độ Hán học đời Trần đã đến như vậy, đủ biết giới sĩ phu tôn sùng
Nho học đến bực nào. Chữ nôm chỉ mới được dùng trong thi ca thôi.
Khi trở thành một nhân vật quan trọng có nhiều thế lực trong nước, Quí
Ly, vốn mang dòng máu cách mạng trong người, đã không ngần ngại nâng
cao chữ nôm và bài bác tư tưởng của thánh hiền Trung quốc, trong khi toàn
thể sĩ phu ta hoàn toàn nô lệ cho những lý thuyết mà họ cho là bất khả xâm
phạm.
Khi Nghệ Tông ban gươm và cờ đề : « Văn võ toàn tài quân thần đồng
đức », Quí Ly nhận lãnh, rồi làm thơ Nôm dâng tạ.
Nghệ Tông thăng hà, Quí Ly lên làm Phụ-chánh-thái-sư vào ở trong
điện, dịch thiên Vô dật trong KINH THI, là thiên chép lời của Chu Công, ra
quốc âm để dạy vua Thuận Tông. Năm Đinh sửu Quí Ly dịch xong pho
Kinh thi dạy các nữ quan, hậu phi và cung nữ. Ông bỏ bài tựa của Chu hy ở
đầu sách rồi viết BÀI TỰA bằng chữ Nôm thay vào. Trong bài tựa, đại ý
ông bảo rằng mình dịch và giải thích theo ý kiến riêng chứ không theo lời
chú thích của Chu Hy. Bình về việc nầy Kiều Thanh Quế
viết : « Người
nước ta, trước Quí Ly, học Thi Thư của Tàu, nô lệ theo tư tưởng của Tàu,
nhất nhất qui theo lời chú thích của Chu Hy. Chỉ họ Hồ là người trước hết
thoát ly được óc nô lệ cổ nhân, đáng phục thay ! »
Quí Ly lại soạn ra sách MINH ĐẠO (để sáng tỏ đạo Nho) dâng lên
Nghệ Tông năm Nhâm Thân (Quang thái thứ năm – I392) đáng kể là một
cuốn sách phê bình triết học đầu tiên ở nước ta, gồm I4 thiên, khen Chu
Công hơn Khổng tử, tôn Chu Công làm bậc tiên thánh, Khổng Tử làm bậc
tiên sư và nêu bốn chỗ đáng ngờ :
- Khổng Tử đến chơi nhà nàng Nam tử.
- Khổng tử hết lương ở nước Trần.
- Công Sơn Phất Nhiễu, Phất Bạt với Khổng Tử, Khổng tử muốn đi.
Cũng trong sách này, Quí Ly kết tội Hàn dũ, một danh sĩ đời Đường, đã
bài xích Phật rất kịch liệt là « ĐẠO NHO » (tức là nhà Nho ăn trộm) và cho
rằng các hiền giả đời Tống (như Chu mậu Phúc hiệu Liêm Khê, Trình Hiếu,