văn đời Hán, chế, biểu dùng lối văn tứ lục đời Đường). Trường đệ tứ thi văn
sách, hỏi kinh sử hay thời vụ, hạn I000 chữ trở lên.
Ngoài ra, cứ thi Hương năm trước thì thi Hội năm sau. Các thí sinh
trúng tuyển còn phải qua một kỳ văn sách nữa do chính nhà vua ra đầu đề để
định trên dưới.
Đến năm Giáp thân (I404), dưới triều Hồ, việc thi cử được sửa đổi nữa.
Họ Hồ đặt thêm một trường để thi viết và làm TOÁN PHÁP. Đó là kỳ chung
kết. Những người đỗ hương thí, năm sau phải vào bộ Lễ thi lại, có đỗ mới
được tuyển dụng, rồi năm sau nữa mới được thi Hội. Qua được kỳ thi này
mới được là Thái học sinh (tức Tiến sĩ).
Những người đỗ hương thí được miễn phu phen tạp dịch năm sau thi ở
bộ Lễ, trúng tuyển thì được bổ chức quan nhỏ.
Cũng nên nhắc lại rằng năm Canh Thìn (I400), khi đã thoán ngôi nhà
Trần, Quí Ly viết THỦ CHIẾU BẰNG CHỮ NÔM ĐỂ PHỦ ỦY NHÂN
DÂN.
Quan niệm về văn hóa của họ Hồ làm nổi bật tinh thần dân tộc cao độ
của ông.
Ông nhận thức trước hơn ai cả rằng chữ Nho là một thứ ngôn ngữ vay
mượn tạm thời và cũng là ngôn ngữ riêng của từng lớp trí thức trong nước.
Nó là bức tường Vạn Lý Trường Thành ngăn cách chính quyền, trí thức với
đại chúng.
Muốn cảm thông với đại chúng, trong khi chờ đợi một thứ chữ nghĩa
giản dị có thể truyền bá mau lẹ khắp nhân dân, thì phải dùng chữ Nôm.
Mặc dầu chữ Nôm phức tạp vì phải biết qua Hán văn mới học được,
nhưng ít ra khi đọc lên, người dân dốt nát cũng hiểu ngay, không qua một sự
phiên dịch như chữ Nho. Vì vậy mà Quí Ly hết sức nồng nhiệt với thứ tiếng
mẹ đẻ ấy của những hành động kể trên.
Sau này, vua Lê Thái Tông (I434-I442) ngỏ ý với quần thần muốn xem
các thủ chiếu và thơ văn Nôm của họ Hồ. Nguyễn Trãi tìm được cho vua