pháp khủng bố như đốt sách vở, chôn học trò để đàn áp phong trào bảo thủ.
Khi nhà Tần đổ, nhà Hán bèn lợi dụng ngay thuyết tôn quân của Khổng Tử
để lung lạc đẳng cấp nho sĩ. Trí thức hệ của nho giáo liền hóa thành một lợi
khí chính trị. Đẳng cấp nho sĩ bám vào trí thức hệ ấy, đồng thời cũng hóa
thành một dụng cụ sẵn sàng để vua chúa sai dùng. Thêm chế độ khoa cử
khuôn nắn tâm não, đẳng cấp nho sĩ bị lung lạc… Các trào lưu tư tưởng
khác bị nghẽn lối. Thêm nền tảng kinh tế nông nghiệp trong xã hội Trung
Quốc chưa lung lay hẳn, Khổng Học vẫn còn chỗ đứng.
« Khi Khổng Học truyền sang Việt Nam, Phật học và Lão học vẫn còn
thịnh, triều Lý vẫn còn phải mở khoa thi Tam giáo để kén nhân tài. »
Sang đời Trần, Khổng Học thịnh dần. Trong VIỆT NAM SỬ LƯỢC,
Trần Trọng Kim chép : « Năm Nhâm Thìn (I232) mở khoa thi Thái học sinh
. Từ đời nhà Lý cũng đã có thi Nho sĩ, nhưng chỉ thi Tam Trường mà thôi,
đến bây giờ mới có khoa thi Thái học sinh, chia ra thứ bậc, làm 3 giáp để
định cao thấp. Đến khoa thi năm Đinh tị (I247) lại đặt ra Tam khôi : Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Khoa thi năm Đinh Tỵ này có Lê Văn Hưu
là người làm sử nước nhà trước hết cả, đỗ Bảng nhãn. Năm Giáp Dần (I347)
mở khoa thi Tiến Sĩ, lấy hơn 50 người cho áo mão vinh qui. Trước vẫn có
Thái học sinh, đến bây giờ mới đổi ra là thi Tiến sĩ. »
Khổng Học thời Lý-Trần dầu chưa cực thịnh như từ đời Lê trở về sau,
nhưng đã sản xuất ra những danh nho túc học, cả những bực Thượng Tướng
như Lý Thường Kiệt, Hưng Đạo Vương, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải,
Phạm Ngũ Lão…, chẳng những sử dụng chữ Tàu một cách thành thạo mà
còn tuyệt diệu nữa. Những bài thơ như « NAM QUỐC SƠN HÀ NAM ĐẾ
CƯ » của Lý Thường Kiệt, « ĐOẠT SÁO CHƯƠNG DƯƠNG ĐỘ » của
Trần Quang Khải, « HOÀNH SÁO GIANG SƠN THẬP KỶ THU » của
Phạm Ngũ Lão, và cả vua Trần Thánh Tôn, sau khi đánh đuổi được giặc
Nguyên, cũng đã có 2 câu thơ khánh hỉ tài tình :
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.