Công điền, công thổ do tư nhân khai thác và nộp thuế lâu ngày thành
hẳn của riêng của tư nhân và trở nên đất ruộng cầm bán được.
Do việc qui định chặt chẽ nầy mà điền địa không bị tập trung quá nhiều
vào tay một thiểu số giàu có. Cũng nhờ đó mà nhân dân được dự một phần
vào quyền sở hữu về đất đai ; tại nhiều xã thôn, nông dân nghèo cũng có
được một sào ruộng công điền để cày cấy, nộp thuế hay đóng góp lệ làng.
Đến triều Trần, thì chế độ tư hữu tài sản bành trướng quá mạnh. Các
nhà quí tộc đã dùng nô, tì, hoành là những nông nô để đắp đê, ngăn nước
mặn ngoài biển, lâu ngày thành đất ruộng rồi lập trang trại. Họ dùng những
nông nô đó làm việc trong trang trại để họ ngồi không mà hưởng. Dân nghèo
đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt vào đó để cho các nhà quí tộc
làm giàu.
Ngoài ra, mặc dầu lịch sử không nói rõ, nhưng có lẽ nhiều người giàu
có đã mua gom tư điền của các nông dân suy sụp để trở thành những đại
điền chủ, cho mượn ruộng đất với địa tô nặng nề, bóc lộ nông dân đến tận
xương tủy.
Số nhân khẩu tăng gia mỗi ngày một đông, nhiều nông dân không có
ruộng cày để nuôi gia đình, và đa số phải phục vụ không công cho các nhà
quí tộc, hoặc mướn ruộng với địa tô cao của những điền chủ, làm đầu tắt mặt
tối mà không đủ ăn.
Lúc bấy giờ, Hồ Quí Ly đã có đầy đủ quyền hành và thế lực, đủ sức
đương đầu với đẳng cấp quí tộc.
Ông nhìn thấy tệ trạng ấy của xã hội, và nếu để cho kéo dài, dân chúng
đói khổ nhiều có thể sanh ra loạn lạc.
Là một chánh trị gia cương quyết và sáng suốt, ông can đảm đối phó
với bất công xã hội ấy bằng biện pháp mạnh là TRUẤT HỮU tư điền.
Theo chánh sách điền địa mới của Quí Ly, trừ các bậc đại vương và
trưởng công chúa, KHÔNG AI ĐƯỢC CÀY CẤY QUÁ I0 MẪU RUỘNG.
Số ruộng thừa phải nộp cho nhà nước. Ngoài ra, ai có tội hay bị giáng truất
đều được lấy ruộng để chuộc tội.