- Giấy vẽ đám mây ăn I tiền.
- Giấy vẽ con rùa ăn 2 tiền.
- Giấy vẽ con lân ăn 3 tiền.
- Giấy vẽ con phượng ăn 5 tiền.
- Giấy vẽ con rồng ăn I quan.
Ai làm giấy bạc giả bị tội tử hình, tịch thu gia sản.
Để khuyến khích nhân dân xài tiền giấy, ai có một quan tiền cũ được
đổi lấy một quan hai tiền giấy. Tiền đồng phải đem nộp kho đổi lấy tiền giấy.
Người nào giấu giếm và xài tiền đồng cũng phải tội như người làm giả tiền
giấy.
Chẳng những thời đại của Quí Ly, mà cả những đời sau, cũng chẳng
hiểu được biện pháp tiền tệ nầy của ông. Bằng chứng là các triều đại sau đó
đều đúc tiền bằng kim khí. Cả sử gia Trần Trọng Kim trong VIỆT NAM SỬ
LƯỢC cũng nhận định : « Quí Ly đặt ra một cách làm tiền giấy để thu tiền
của dân ».
Về THUẾ MÁ, như chúng tôi có nói qua, các triều đại Việt Nam
thường đặt ra hai hạng thuế : trực tiếp và gián tiếp.
Công kỹ nghệ và thương mãi chưa phát triển, nên thuế gián thâu chưa
phải là nguồn lợi tức đáng kể cho quỹ của triều đình, nên các triều đại đều
đặt trọng tâm vào thuế trực thâu, là thuế đinh và thuế điền.
Về triều Trần, mỗi suất đinh đều phải nộp 3 quan, theo đề nghị của Đỗ
Tử Bình được áp dụng từ năm Mậu Ngọ, Xương phù thứ hai (I378). Mỗi
mẫu tư điền phải nộp 3 thang lúa.
Năm Nhâm Ngọ (I402), họ Hồ định lại :
- THUẾ ĐINH : tùy tình trạng gia cảnh mỗi người, nhưng chiếu theo số
ruộng tư hữu mà đánh. Hạng vô sản được đặc miễn. Hạng có 5 sào nộp 5
tiền giấy. Hạng có từ 6 sào đến I mẫu, nộp I quan tiền giấy. Hạng có từ I
mẫu một sào đến I mẫu 5 sào, nộp I quan 5 tiền giấy. Hạng có I mẫu 6 sào
đến 2 mẫu nộp 2 quan tiền giấy. Hạng có 2 mẫu I sào đến 2 mẫu 5 sào nộp 2
quan 6 tiền giấy. Hạng có 2 mẫu 6 sào trở lên nộp 3 quan tiền giấy.