Tạm dịch :
Chim nga đôi chim nga
Hướng về chân trời xa
Lông trắng phô nước lục
Chèo hồng sóng biếc pha
Sứ Tàu rất phục, khi về đến sứ quán, thảo I bài thơ gởi tặng sư Thuận.
Trong bữa tiệc tiễn sứ, vua truyền Khuông Việt đại sư làm I bài từ tiễn Lý
Giác.
Trong sách « Kiến văn tiểu lục », mục Truyền dật ký, Lê Quí Đôn bình
về hai sự việc trên rằng : « …câu thơ sư Thuận, sứ Tống khen hay, bài từ
Khuông Việt, nổi tiếng I thời ! »
Đặc biệt hơn các nước Âu Châu, các danh tướng Việt Nam chẳng
những dụng binh như thần, tung hoành nơi mặt trận, chém đầu cả các đại
tướng « thiên quốc » đã từng làm mưa làm gió từ Á sang Âu, lại xuất khẩu
thành chương, đầy thi hứng, hơi thơ lại mạnh như vũ bão.
Trước khi ra trận sống mái một phen với quân Tống. Lý Thường Kiệt
cho người giả làm thần nhân ngâm to bốn câu thơ Tàu do ông sáng tác để
làm phấn khởi lòng quân sĩ :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như Hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Tạm dịch :
Sơn hà Nam quốc vua quan ở,
Ý trời định trước trong thiên thư.
Tại sao ngu ngốc sang xâm phạm,
Há chẳng am tường lẽ bại hư ?
Đức Hưng Đạo vương soạn sách « Binh thư yếu lược » bằng Hán Văn,
ban hịch tướng sĩ lời lẽ thật hùng hồn, cũng bằng Hán văn.