hoạch thất bại) nên họ không quan tâm đến động lực của người lao động
hay các nhà quản lý cũng như tác động ảnh hưởng của động lực ấy đến
năng suất lao động ra sao. Một vấn đề then chốt đối với các nhà hoạch định
của Stalin là làm sao tăng năng suất lao động, đẩy lùi tình trạng thất nghiệp.
Phong trào thi đua lao động, cạnh tranh xã hội và những phong trào khác
đều được khơi mào với mục đích tăng thêm nhiều của cải cho xã hội dựa
vào những nguồn lực sẵn có trong nước. Stalin nói về các tổ chức công
đoàn giống như các tổ chức trung chuyển giữa Trung ương và người lao
động nhằm đạt năng suất lao động cao hơn. Phong trào thi đua tăng năng
suất ngày càng mở rộng dẫn đến tình trạng ưu tiên số lượng hơn chất lượng.
Chất lượng sản phẩm giảm sút không khuyến khích người lao động
quan tâm đến việc tìm kiếm sáng kiến cải tiến sản xuất. Họ e ngại nếu một
sáng kiến áp dụng không đạt hiệu quả, xí nghiệp có thể bị phạt. Do vậy,
chiều hướng tránh nguy cơ trên dẫn đến việc ngại áp dụng sáng kiến. Cho
đến cuối những năm 1930, các vấn đề kinh tế nghiêm trọng đã bao trùm lên
toàn bộ nền kinh tế, người ta mới đề cập vấn đề giao thêm quyền tự quản
cho các xí nghiệp. Thực tế cho thấy các nhà lập kế hoạch lại không phải là
những người trực tiếp sản xuất để hiểu tường tận tình hình. Tuy nhiên,
chiến tranh đã chấm dứt các cuộc tranh cãi và chính sách kinh tế thời chiến
cho phép các xí nghiệp có quyền vạch ra những quyết sách của mình nhằm
đẩy mạnh sản xuất sản phẩm tối đa dựa trên nguồn lực sẵn có.
Sự thụ động trong quản lý và lao động là mối quan tâm thường trực
của Khrushchev (1953-1964). Ông nhanh chóng nhận biết xã hội Xô viết
đang thiếu gì và phát động nhiều chính sách cải cách nhằm đạt được hiệu
quả to lớn hơn. Ông xua đi sự e ngại và tâm lý rụt rè trong dân chúng, vì tin
rằng tâm lý đó sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển. Tất cả những cải cách
của ông đều tập trung vào việc nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, kể
từ khi thành lập, Liên Xô cho rằng môn tâm lý không có mấy tác dụng,
Khrushchev phủ nhận cách tiếp cận từ các nghiên cứu động lực thúc đẩy xã
hội. Chính điều này cứu ông tránh được những sai lầm nghiêm trọng hơn.