đấu tranh quyết liệt giành quyền kế nhiệm Lenin đã chấm dứt năm 1929 với
chiến thắng của Stalin. Ông rất khôn khéo khi lập liên minh chống lại
những đối thủ chính của mình, đầu tiên là những người theo tư tưởng
Trotsky, đồng thời ông cũng vô cùng khôn ngoan che đậy tham vọng đích
thực của mình: trở thành nhà lãnh đạo đầy quyền lực ở Nga. Với Lenin,
việc cơ cấu lại chính phủ đã thu phục được lòng dân. Trên cương vị Chủ
tịch Hội đồng nhân dân (Sovnarkom), ông tìm cách dồn mọi nguồn lực vào
việc thành lập chính phủ. Năm 1922, nắm vị trí Tổng Bí thư Đảng, Stalin
dồn hết mọi nguồn lực xây dựng một bộ máy Đảng phục vụ việc củng cố
địa vị cũng như phe cánh chính trị của mình. Từ năm 1921, Bộ Chính trị trở
thành cơ quan quyền lực tối cao có chức năng ban hành các quyết sách và
vào những năm 1920, trong Bộ Chính trị đã diễn ra mạnh mẽ nhiều cuộc
luận chiến. Stalin được coi là một nhà lãnh đạo chuyên chế từ năm 1934.
Ông điều hành bộ máy Đảng và chính quyền một cách độc đoán như một
Nga hoàng (thực tế ông là người có tư tưởng Đại Nga, sinh ra ở vùng
Gruzia) và thâu tóm vào tay mình mọi quyền lực ở Moskva. Chủ nghĩa
Stalin là sự pha trộn giữa tư tưởng Đại Nga với các nét văn hóa chính trị,
kinh tế thời Xô viết.
Nền kinh tế kế hoạch (còn gọi là nền kinh tế chỉ huy) phát triển sau
năm 1928 và được nhân cách hóa lên cho phù hợp. Nó dựa trên sự giả định
logic là nếu tất cả mọi nguồn lực quốc gia được huy động tập trung và được
phát huy một cách tối ưu thì kết quả sẽ ưu việt hơn bất cứ thành tựu nào của
nền kinh tế thị trường. Marx viết về sự phát triển của thị trường: Nền kinh
tế kế hoạch tập trung ưu việt hơn chăng? Hàm chứa trong mô hình kinh tế
của Stalin còn có một niềm tin vững chắc rằng không một nhân tố nào (như
các nhà quản lý, công nhân) dung dưỡng những lợi ích khác với lợi ích của
Đảng, của chính quyền. Vì vậy, lợi ích riêng và lợi ích chung sẽ luôn song
hành, cùng tồn tại. Điều này chứng tỏ sai lầm cơ bản về nhận thức lặp lại
trong thời kỳ Gorbachev.