kịp quá trình tiến hóa thành con người hiện đại. Tuy nhiên, lý thuyết của
Lombroso còn bộc lộ những thiếu sót nhanh hơn cả não tướng học. Charles
Goring, một bác sĩ người Anh đã khai tử học thuyết về "những tên tội phạm
bẩm sinh" của Lombroso khi ông tiến hành một nghiên cứu vào năm 1913.
Goring so sánh đặc điểm sinh lý của hàng ngàn tù nhân trên khắp nước Anh
với những người lính thuộc lực lượng công binh hoàng gia. Kết quả cho
thấy không có điểm khác biệt quan trọng giữa hai nhóm người nầy.
Những tưởng sau Lomboso sẽ chấm dứt những nghiên cứu về gen "tội
phạm". Nhưng một loạt nghiên cứu mới về ý tưởng này vẫn ra đời sau đó
mà điển hình là "gia đình Kallikak" của nhà tâm lý học Henry Goddard.
Ông nghiên cứu hai nhánh phả hệ thuộc dòng họ Kallikak. Một bắt đầu từ
Martin Kallikak và một người hầu gái có trí óc không bình thường. Nhánh
này có 480 con cháu, trong đó hơn một nửa là tội phạm hoặc có hành vi
lầm đường lạc lối. Nhánh thứ hai, cũng xuất phát từ Martin Kallikak nhưng
với phụ nữ hoàn toàn bình thường. Nhánh này co 496 con cháu, trong đó
không ai trở thành tội phạm. Từ những nghiên cứu - mà người đời cho là
hư cấu - Goddard khẳng định con người có thể kiểm soát hành vi phạm tội
bằng cách cải thiện chất lượng gen (giữ lại những gen tốt và loại bỏ những
gen xấu). Thế là ông ta cho ra đời một khái niệm mới: thuyết ưu sinh. Hàng
loạt nhũng nghiên cứu điên rồ dựa trên thuyết ưu sinh đã được tiến hành
ngay sau đó. Trong vòng 15 năm, có tới hàng ngàn công dân Mỹ bị thiến để
ngăn chặn cái gọi là "sự tái sinh" của gen tội phạm. Sự thể còn tai hại hơn
khi trùm phát xít Hitler lên nắm quyền ở Đức và ý tưởng của Goddard được
hắn đặc biệt chú ý. Một cuộc thanh lọc chủng tộc quy mô lớn lại bắt đầu
trên đất Đức. Lần này, nạn nhân không chỉ là tội phạm hay người chậm
phát triển trí tuệ mà còn là những người tàn tật, người mắc bệnh tâm thần,
bệnh xã hội, người nghiện... Tất cả bọn họ bị giết, bị thiến cốt tạo ra dòng
giống Aryan thuần chủng nhằm phục vụ cho mục đích thống trị thế giới của
tên đao phủ tàn bạo nhất trong thế kỷ 20.
Những tổn thương ở não