đó chăng?”
Khi Langdon lục lại những chỗ tối nhất trong ký ức của mình, anh lại nhìn
thấy người phụ nữ che mạng. Bà ấy đang đứng bên bờ một con sông đỏ máu
với những xác người xung quanh. Mùi tử khí quay trở lại.
Bỗng nhiên Langdon thấy ngập trong một cảm giác rất bản năng về sự
nguy hiệm… không chỉ cho chính anh… mà cho tất cả mọi người. Tiếng
máy theo dõi nhịp tim của anh tăng vọt. Các cơ trong người anh cứng lại, và
anh gắng ngồi dậy.
Bác sĩ Brooks vội ấn mạnh tay lên ức Langdon, ép anh nằm xuống. Cô
liếc nhanh về phía vị bác sĩ râu rậm lúc này đang bước về phía cái bàn quầy
kế bên và bắt đầu chuẩn bị thứ gì đó.
Bác sĩ Brooks ghé sát người xuống Langdon, thì thào. “Anh Langdon,
tâm lý lo lắng là chuyện rất bình thường với những ca chấn thương não,
nhưng anh cần giữ cho mạch đập giảm xuống. Đừng cử động. Đừng kích
động. Hãy nằm yên và nghỉ ngơi. Anh sẽ ổn thôi. Trí nhớ của anh sẽ dần dần
hồi phục.”
Giờ vị bác sĩ kia quay lại cùng với một ống tiêm và trao cho bác sĩ
Brooks. Cô bơm toàn bộ số thuốc bên trong vào ống truyền của Langdon.
“Chỉ là một liều an thần nhẹ để anh bình tĩnh lại”, cô giải thích, “và cũng
để giảm đau nữa”. Cô đứng lên. “Anh sẽ ổn thôi, anh Langdon. Hãy ngủ đi.
Nếu anh cần gì, hãy bấm cái nút bên cạnh giường.”
Cô tắt đèn và rời đi cùng với vị bác sĩ râu rậm.
Trong bóng tối, Langdon cảm nhận rõ chất thuốc đang ngấm qua cơ thể
anh gần như ngay tức thì, kéo thân xác anh chìm trở lại cái giếng sâu mà anh
vừa ngoi lên. Anh cố chống lại cảm giác đó, cố mở to mắt trong bóng tối của
căn phòng. Anh gắng ngồi dậy, nhưng có cảm giác cơ thể mình giống như cả
khối xi măng.
Khi nhúc nhích, Langdon lại thấy mình nhìn ra ổ cửa sổ. Đèn đó đã tắt cả,
và trong ô kính tối đen, hình ảnh phản chiếu của anh đã biến mất, thay vào
đó là đường chân trời sáng lên phía xa.
Xen giữa những chóp nhọn và mái vòm nhấp nhô, nổi bật trong tầm nhìn
của Langdon là một mặt tiền tráng lệ. Tòa nhà là một pháo đài đá rất uy nghi