như thể chúng từng chứng kiến nhiều trải nghiệm mà một người trạc tuổi cô
hiếm có dịp được tao ngộ.
“Bác sĩ Marconi không nói được nhiều tiếng Anh”, cô lên tiếng và ngồi
xuống cạnh anh. “Và ông ấy đề nghị tôi giúp điền mẫu đơn nhập viện cho
anh.” Cô lại mỉm cười.
“Cảm ơn cô”, Langdon rền rĩ.
“Được rồi”, cô lên tiếng, giọng toát lên sự tháo vát ân cần. “Tên anh là gì
nhỉ?”
Anh phải mất một lúc mới trả lời được: “Robert… Langdon”.
Cô rọi đèn soi vào mắt anh. “Nghề nghiệp?”
Thông tin này được đưa ra còn chậm hơn nữa. “Giáo sư. Lịch sử nghệ
thuật… và biểu tượng học. Đại học Harvard.”
Bác sĩ Brooks hạ đèn xuống, vẻ ngạc nhiên. Vị bác sĩ với đôi mày rậm
trông cũng bất ngờ không kém.
“Anh là… người Mỹ à?”
Langdon ngơ ngác nhìn cô.
“Chỉ là…”, cô ngập ngừng. “Tối qua lúc anh đến đây, anh không hề có
giấy tờ tùy thân. Lúc ấy anh mặc trang phục Harris Tweed và đi giày lười
hiệu Somerset, cho nên chúng tôi đoán anh là người Anh.”
“Tôi là người Mỹ”, Langdon quả quyết với cô, nhưng anh quá mệt không
thể giải thích được rằng anh rất chuộng quần áo may đo riêng.
“Anh có thấy dau chỗ nào không?”
“Ở đầu tôi”, Langdon đáp, cái đầu vẫn đang nhoi nhói của anh gặp anh
đèn rọi sáng quắc càng thêm khó chịu. May thay, bác sĩ Brooks bỏ đèn vào
túi, cầm lấy cổ tay Langdon và kiểm tra mạch đập.
“Lúc tỉnh lại, anh la hết dữ dội”, cô nói. “Anh có nhớ tại sao không?”
Langdon vụt nhớ lại hình ảnh kỳ quái về người phụ nữ đao mạng với
những xác người quằn quại xung quanh. Hãy tìm và sẽ thấy. “Tôi gặp một
cơn ác mộng.”
“Như thế nào?”
Langdon kể lại cho cô nghe.