hợp, đó là những hình thức thể hiện bằng thư pháp tên của các nhân vật thần
thánh trong đạo Hồi”.
Một trong số các sinh viên của Langdon đã đúc kết đoạn lịch sử phức tạp
này bằng một ghi chú bên lề vở chính xác đến thú vị rằng: “Người Thiên
Chúa giáo thích mặt, người Hồi giáo thích chữ”.
“Trước mặt chúng ta đây”, Mirsat tiếp tục, ra hiệu về phía bên kia gian
phòng kỳ vĩ, “các vị thấy một sự hòa trộn độc đáo giữa Thiên Chúa giáo và
Hồi giáo”.
Anh ta chỉ rõ sự kết hợp của các biểu tượng ở khu hậu cung hoành tráng,
đáng chú ý nhất là hình tượng Đức mẹ Đồng trinh và Chúa Hài đồng nhìn
xuống mihrab - chỗ ngách tường hình bán nguyệt trong một giáo đường Hồi
giáo cho biết phương hướng của Mecca. Gần đó, một dãy cầu thang chạy
đến bục giảng kinh, trông giống kiểu bục dùng làm nơi thực hiện các bài
thuyết pháp Thiên Chúa giáo, nhưng trên thực tế lại là một minbar, bục
thánh lễ cho thầy tế thực hiện các buổi lễ ngày thứ Sáu. Tương tự, kết cấu
hình hoa cúc gần đó trông giống khu vực dành cho đội hợp ca nhà thờ Thiên
Chúa giáo nhưng thực tế lại là müezzin mahfili, một loại bục được tôn cao
dành cho thầy tu báo giờ quỳ và cầu kinh đáp lại lời cầu nguyện của thầy tế.
“Các giáo đường Hồi giáo và thánh đường Thiên Chúa giáo giống nhau
đến kinh ngạc”, Mirsat tuyên bố. “Truyền thống của Đông và Tây không
khác biệt nhiều như chúng ta nghĩ!”
“Anh Mirsat?”, Brüder thúc bách, giọng đầy nôn nóng. “Chúng tôi rất
muốn vào xem mộ Dandolo, nếu có thể?”
Mirsat có vẻ hơi bực mình, như thể vẻ nóng vội của Brüder chính là một
biểu hiện thiếu tôn trọng đối với nhà thờ này.
“Phải”, Langdon nói. “Tôi xin lỗi vì vội vàng, nhưng chúng tôi có thời
gian biểu rất sít sao.”
“Cũng được thôi”, Mirsat nói, tay chỉ một ban công khá cao bên trái họ.
“Chúng ta lên gác và xem ngôi mộ.”
“Đi lên sao?”, Langdon giật mình đáp lại. “Không phải Enrico Dandolo
được chôn cất trong hầm mộ à?” Langdon nhớ rõ về ngôi mộ, nhưng không