nhỏ cô nhi đều ở tuổi phải đút cháo, phần lớn đã ăn cơm. Với những em
này, chúng em chỉ phụ chúng bằng cách lấy cơm, lấy đồ ăn để chúng tự ăn
lấy. Nhưng có một cái lệ chúng em quen, là hay gọi tắt cho dễ nhơ. Dù phụ
các em nhỏ ăn cơm hay đút cháo, chúng em cũng gọi tắt là đút cháo.
Nhỏ Thư Hương mở bao ni lông bánh kẹo của nhỏ ấy ra đếm được sáu cục
kẹo loại một đồng, tám cục kẹo chanh năm cắc và mười hai cái bánh. Phần
của em ít hơn, nhưng bánh lại là bánh quế, loại bánh mà nhỏ Thư Hương
rất thích. Nhỏ ấy đòi đổi:
- Tao đưa cho mày hết mười hai cái bánh, mày đổi cho tao bốn cái bánh quế
nghe Dung Chi.
Nếu như ngày thường, chắc chắn chẳng bao giờ nhỏ Thư Hương được toại
ý. Nhưng hôm nay, ngày cuối cùng - dù sư cô Trí Huệ có nói là em có
quyền quyết định, nhưng em nghĩ, dù không bằng lòng, em cũng nhận lời
để khỏi làm thất vọng người đã có ý hỏi xin em, để khỏi làm phiền lòng các
sư cô, những người luôn mong mỏi, cầu nguyện một cuộc sống an lành cho
em. Ngày cuối cùng còn được trò chuyện, chơi đùa với các bạn ở đây, thì
em còn tiếc gì mấy cái bánh quế em cũng ưa thích.
Em lấy bánh quế trao cho nhỏ Thư Hương, nhưng từ chối, không nhận
bánh của nhỏ ấy. Nhỏ ấy ngạc nhiên:
- Mày không chịu? Mày muốn lấy thêm kẹo hả?
Em lắc đầu nhì nhỏ Thư Hương, nhỏ nhìn lên. Bốn mắt chúng em nhìn
nhau. Và có lẽ nhỏ Thư Hương đọc được trong ánh mắt của em câu trả lời.
Nhỏ hỏi em:
- Mày biết ba má nuôi là ai chưa?
Em lắc đầu:
- Chưa thấy sư cô nói cho biết.
Nhỏ Thư Hương:
- Tao cầu trời cho ba má nuôi của mầy không đến.
Nhỏ Thư Hương thương em mà nói vậy. Nhỏ ấy cầu trời.
Cầu trời. Nơi níu kéo hy vọng của con người luôn là một đấng vô hình.
Nguyện xin. Để ôm cái hy vọng trong vòng tay niềm tin.
Em không còn hai tiếng cầu trời và nguyện xin nữa. Em chỉ còn sự chờ đợi.