Chương 24 : TROYES, PHÁP.
Sumayriyya? Mày muốn biết về Sumayriyya? Đó là Thiên Đường trên
trần thế. Là vườn địa đàng. Với những vườn cây ăn quả và những khu rừng
ôliu, dưa và chuối, dưa chuột và lúa mì. Sumayriyya rất giản dị và thanh
khiết. Cuộc sống của chúng tao vận động theo nhịp điệu của công việc gieo
trồng và thu hoạch. Theo hai mùa mưa nắng. Làng chúng tao có tám trăm
người. Chúng tao có một nhà thờ Hồi giáo. Chúng tao có một ngôi trường.
Chúng tao nghèo, nhưng Allah ban cho chúng tao tất cả mọi thứ mà chúng
tao cần”.
Nghe cô ả kìa, Gabriel nghĩ thầm trong khi vẫn chăm chú lái xe. Chúng
tao… Của chúng tao… Cô ả ra đời hai mươi năm sau khi làng Sumayriyya
biến mất trên bản đồ, nhưng ả nói về ngôi làng đó như thể ả đã sống ở đó cả
đời.
“Ông nội tao là một người quan trọng. Không, không phải một muktar,
nhưng là một người có ảnh hưởng trong số các bậc ‘trưởng lão’ trong làng.
Ông có gần 60.000m2 đất và một đàn dê lớn, ông tao được coi là một người
giàu có”. Một nụ cười châm biếm xuất hiện trên môi Palestina. “Giàu” ở
Sumayriyya nghĩa là ít nghèo hơn những người khác một chút “.
Ánh mắt ả tối sầm lại. Ả nhìn xuống khẩu súng, rồi lại nhìn một nông
trại Pháp vừa vụt qua ngoài cửa sổ.
“Năm 1947 đánh dấu sự kết liễu ngôi làng của tao. Vào tháng 11, Liên
Hiệp Quốc biểu quyết đòi chia đôi đất đai của chúng tao và trao một nửa
cho người Do Thái. Sumayriyya, cũng như phần còn lại của miền Tây
Galilee, được quyết định sẽ trở thành một phần lãnh thổ thuộc về nhà nước
Arập của Palestine. Nhưng, tất nhiên, điều đó đã không trở thành hiện thực.
Chiến tranh nổ ra ngay sau ngày Liên Hiệp Quốc biểu quyết, và với người
Do Thái, toàn bộ đất Palestine giờ đây là mục tiêu để họ tranh đoạt”.
Gabriel muốn nói: Chính người Arập đã mở đầu cuộc chiến – Sheikh
Asad al-Khalifa, “Sứ quân” của Beit Sayeed, là kẻ đã mở đầu cơn mưa máu