tưởng binh lính Do Thái là lực lượng tiếp viện người Arập. Anh ta bắn chỉ
thiên để bày tỏ sự vui mừng và lập tức bị đốn gục bởi đạn của Haganah. Tin
người Do Thái nguỵ trang là người Arập khiến cả ngôi làng chìm trong
hoảng loạn. Những chiến binh bảo vệ làng Sumayriyya đã chiến đấu rất
dũng cảm, nhưng họ không thể địch nổi quân Haganah được vũ trang tốt
hơn. Chỉ trong vài phút, cuộc di tản bắt đầu”.
“Người Do Thái muốn chúng tao ra đi”, ả nói. “Họ cố tình bỏ ngỏ phía
đông ngôi làng để mở đường rút cho chúng tao. Chúng tao không có thời
gian để gói ghém quần áo hay thậm chí là thức ăn. Chúng tao chỉ biết bỏ
chạy. Nhưng người Do Thái vẫn chưa hài lòng, họ bắn vào chúng tao khi
chúng tao chạy qua những cánh đồng mà cha anh chúng tao đã trồng cấy
qua nhiều thế kỷ. Năm dân làng chết trên những cánh đồng đó. Các công
binh của Haganah lập tức tràn vào. Trên đường chạy trốn, chúng tao nghe
thấy những tiếng nổ, người Do Thái đã biến Thiên Đường của chúng tao
thành một đống hoang tàn không thể nào cư trú được nữa”.
Dân làng Sumayriyya chạy theo con đường hướng Bắc, dẫn sang Libăng.
Chẳng bao lâu sau họ nhập bọn với cư dân hai làng Bassa và Zib và nhiều
làng nhỏ khác ở phía đông. “Người Do Thái bảo chúng tao sang Libăng”, ả
nói. “Họ bảo chúng tao đợi ở đó trong vài tuần cho tới khi giao tranh chấm
dứt, và sau đó chúng tao sẽ được phép trở về. Trở về ư? Chúng tao sẽ trở về
đâu? Nhà cửa của chúng tao đã bị xoá sổ. Vì vậy chúng tao cứ đi tiếp, qua
biên giới, đi vào đời sống lưu vong, vào lãng quên. Và sau lưng chúng tao
những cánh cổng của Palestine đã đóng kín mãi mãi, vĩnh viễn không cho
phép chúng tao trở về”.
***
Reims: 5 giờ chiều.
“Ép vào lề”, Palestina ra lệnh.
Gabriel rẽ chiếc Mercedes vào đường phụ và dừng lại. Họ chờ đợi trong
im lặng, chiếc xe rung rung như đang rùng mình trước dòng xe cộ nhộn
nhịp chạy qua. Cuối cùng chuông điện thoại cũng reo. Ả lắng nghe, lâu hơn
những lần trước. Gabriel ngờ rằng ả đang được dặn dò những mệnh lệnh