Sumayriyya nữa. Thiên đường đã mất”.
Gabriel nhìn đồng hồ. 5 giờ 10 phút. Còn tám mươi dặm nữa là tới Paris.
“Chúng tao đi bộ về phía bắc, đến Sidon. Chúng tao sống qua mùa hè
dài, nóng bức trong những túp lều. Rồi tiết trời trở lạnh và mùa mưa đến, và
chúng tao vẫn sống trong những túp lều tồi tàn ấy. Chúng tao gọi mái nhà
mới của mình là Ein al-Hilweh. Suối ngọt. Người gặp nhiều khó khăn nhất
là ông nội tao. Ở Sumayriyya, ông là một nhân vật quan trọng, ông chăm
sóc cánh đồng và những đàn gia súc, nuôi sống gia đình. Giờ đây ga đình
ông phải sống bằng của bố thí. Ông có văn khế chứng minh quyền sở hữu
tài sản, nhưng không còn đất đai. Ông có những chiếc chìa khoá nhưng
không còn nhà để mở. Ông mắc bệnh trong mùa đông đầu tiên và qua đời.
Ông không còn muốn sống – không phải ở Libăng. Ông nội tao chết khi
Sumayriyya chết”.
6 giờ 25 phút. Paris: 62 dặm.
***
“Lúc đó cha tao chỉ là một cậu bé, nhưng đã phải gánh vác trách nhiệm
nuôi mẹ và hai người em gái. Ông không thể làm việc – người Libăng
không cho phép. Ông không được đến trường – người Libăng cũng không
cho phép việc đó. Không có an sinh xã hội ở Libăng, không có bảo hiểm y
tế ở Libăng. Và cũng không có lối thoát, vì chúng tao không có hộ chiếu
hợp lệ. Chúng tao không có quyền công dân. Chúng tao không phải là con
người. Chúng tao chẳng là cái gì cả”.
5 giờ 38 phút. Paris: 35 dặm.
“Khi cha tao kết hôn với một cô gái cũng đến từ làng Sumayriyya, những
người dân làng còn sót lại đều tề tựu về Ein al-Hilweh để dự lễ cưới. Giống
hệt như khi còn ở nhà, chỉ có khung cảnh xung quanh là khác. Thay vì
Thiên Đường, đó là những túp lều và những căn chòi trong trại tị nạn. Mẹ
tao sinh cho cha tao hai người con trai. Đêm nào ông cũng kể cho họ nghe
về Sumayriyya, để họ không bao giờ quên quê hương gốc gác của mình.
Ông kể cho họ nghe câu chuyện về al-Nakba – Tai Ương, và gieo vào lòng