"Cũng liễu đầu bạc, dám lầm tuổi xanh".
Nặng lời nỡ nhẹ làm thinh,
Rằng : "Trong cửa cửi phòng canh biết gì ?"
645.- "Vả trong
"Cùng nhau đôi lứa cũng tùy nơi xe.
"Rẽ đường hãy lánh cho về,
"Lẽ thường hẳn chẳng e-nề chút ru ?"
"Nể lời có lẽ cầm lâu,
650.- Lánh ngang sinh lại theo sau gạn nài :
"Lời vàng ý ngọc dám sai,
"Lửa gần lại bảo cho bài nước xa.
"Tin kinh diệu-vợi tin nhà,
"Thưa chừng, những sợ hoặc là sao chăng ?
655.- "Chút chi gắn-bó gọi rằng,
"Cho đành mối gió tin trăng sau này".
Tai nghe vội dạo gót giày,
Mắt đưa ai luống trông ngay tận lầu.
Chú thích:
dù ngựa :do chữ Cái Mã.Cái lọng dù.Mã là ngựa.Nghĩa nhà sang-quí đi
lọng, cỡi ngựa.
trâm anh:Trâm là trâm dắt trên mão.Anh là giải mão.Trâm anh tức là nhà
quyền-quí,
khuê-khổn:nơi cửa phòng đàn bà con gái.
chi:tiếng nói tắt của chữ Yên-chi, là sáp đỏ để thoa môi phụ-nữ đời xưa.
Giàn vi, giá thược:Giàn: là cái giá, Thược là hoa thược-dược, cành thường
yếu nên phải dùng đến cái giá để đỡ hoa.
Đài-trang:tức Trang-đài: ghế để đồ nữ-trang.Đây sự Xưng-hô của phụ nữ.
phong-bác:là những sự xem-xét coi đáng làm hay đáng bỏ.
vẻ sao:bởi chữ Tinh-thai là cái vẻ sáng có màu sắc của các ngôi sao. Nghĩa
bóng là dung-mạo của nàng Giao Tiên.