“Cô là họa sĩ,” tôi lẩm bẩm, chỉ vì không muốn im lặng mãi. Tôi thấy lo
lắng khi nghĩ đến việc bất cứ lúc nào cô cũng có thể nhận ra mình đang
trong tình trạng thiếu quần áo và hét lên rồi vùng chạy vào phòng ngủ. Tôi
cố đưa mắt nhìn lung tung, nhìn khắp mọi nơi trừ cô.
“Bia hay rượu? Ở đây chẳng còn gì khác ngoài bia với rượu cả. Anh
không thích bia rượu thì phải?”
“Tôi không ở lại được,” tôi nói, cố gắng kiềm chế bản thân và dán chặt
ánh mắt vào nốt ruồi bên cằm trái của cô. “Tôi không có chìa khóa để vào
nhà. Tôi muốn vào nhà bằng đường thoát hiểm. Nó ở ngay cửa sổ.”
“Bất cứ lúc nào cũng được,” cô khẳng định. “Mấy cái khóa hiện đại này
chỉ tổ hại điện thôi. Tôi cũng đã ba lần không vào được nhà ngay trong tuần
đầu tiên ở đây – và một lần phải đứng ngoài hành lang trong tình trạng trần
như nhộng. Đi ra ngoài lấy sữa, thế là cánh cửa khốn nạn sập ngay sau lưng
mình. Tôi tháo bố nó cái khóa ngu xuẩn ấy đi và từ đó đến giờ trên cửa nhà
tôi không còn loại khóa đó nữa.”
Có lẽ tôi đã cau mày, bởi vì cô bật cười. “Đấy, anh biết loại khóa khốn
nạn đó thế nào rồi đấy. Nó nhốt anh ở ngoài, trong khi lại chẳng bảo vệ
được gì nhiều, phải không? Năm ngoái ở tòa nhà khỉ gió này có mười lăm
vụ trộm thì tất cả đều xảy ra ở những căn hộ có khóa cửa. Chẳng có ma nào
đột nhập vào đây, mặc dù cửa luôn mở. Mà có vào được thì chúng cũng chỉ
tổ mất thời gian vô ích nếu có ý định tìm kiếm thứ gì giá trị ở đây.”
Lần này, khi cô nài tôi thêm một lần nữa uống cùng cô một cốc bia, tôi
đồng ý. Trong lúc cô vào bếp lấy bia, tôi quan sát lại căn phòng. Lúc trước
tôi không để ý rằng phần bức tường phía sau tôi đã bị dọn sạch – toàn bộ đồ
đạc dẹp sang một bên phòng hoặc đưa ra giữa để bức tường phía xa (vữa bị
cạo sạch chỉ còn trơ gạch) đóng vai trò một phòng tranh. Tranh treo dày
trên trần, nhiều bức khác chồng đống lên nhau trên sàn nhà. Một vài bức là
tranh chân dung tự họa, trong đó có hai bức khỏa thân. Bức tranh mà cô