21
* Tà khách ở lạc Túc-quyết-âm : khiến người bổng dưng Sán-thống, bạo thống... thích ở chỗ thịt giáp móng
ngón chân cái, mỗi bên một vĩ. Bịnh nhân là con trai : khỏi ngay ; là con gái một lát khỏi. Bịnh bên tả thích bên
hữu. bịnh bên hữu thích bên tả.
* Tà khách vào lạc Túc-thái-dương : khiến người ñầu và cổ ñều ñau. Thích ở chỗ thịt giáp móng ngón chân út,
mỗi bên một ‘vĩ’. Bịnh bên tả thích bên hữu, bịnh bên hữu thích bên tả. Như xong một bữa ăn sẽ khỏi.
* Tà khách ở Lạc Thủ Dương-Minh, khiến người khí mãn trong Hung suyễn và thở gấp. Hiếp nghẽn Hung
nhiệt, thích ở ngón tay giữa và ngón vô danh, cách chỗ móng bằng một lá hẹ nằm ngang, mỗi ngón 1 vĩ. Bịnh bên
tả thích bên hữu, bịnh bên hữu thích bên tả. Như xong bửa ăn sẽ khỏi.
* Tà khách ở khoảng Tý-Trưởng (cánh tay, bàn tay) không thể co lại ñược, thích ở sau Khoả (sau khuỷ tay),
trước lấy tay ấn vào, thấy ñau bấy giờ mới thích. Lấy Nguyệt (mặt trăng) mọc lặn làm số hạn. Trăng mọc ngày thứ
nhất : thích 1 vĩ ; ngày thứ 2 : 2 vĩ... ngày thứ 15 :15 vĩ... ngày 16 : 14 vĩ ... (rút ñi dần)
* Tà khách ở mạch Túc DƯƠNG-KIỂU khiến người mắt ñau, bắt ñầu từ trong ñầu mắt trước ; thích ở dưới
Ngoại khoả nửa tấc, ñều 2 ‘vĩ’ . Bịnh bên tả thích bên hữu, bịnh bên hữu thích bên tả. Một lát lâu như ñi ñược 10
dặm, sẽ khỏi.
Nếu bị ngả ñau, ác huyết lưu ở bên trong, trong bụng ñầy, không ñại tiểu ñược, trước nên cho uống LỢI
DƯỢC (thứ thuốc uống cho lợi ñại, tiểu). Bịnh ñó do bên trên thời thương ñến mạch của QUYẾT ÂM. Bên dưới thời
thương ñến lạc của THIẾU DƯƠNG, thích ở dưới, tức nội khoả, phía trước Nhiên-cốc, ñể cho huyết ở mạch tiết ra.
Lại thích ở ðộng-mạch trên mu bàn chân, vẫn không khỏi, lại thích ở trên Tam-mao ñều một ‘vĩ’, thấy nhớm huyết,
khỏi ngay. Bịnh bên tả, thích ở hữu, bịnh bên hữu thích ở tả. Nếu bịnh nhân hay bi, kinh, không vui, cũng thích
như phương pháp trên.
* Tà khách ở lạc của Thủ DƯƠNG MINH khiến người tai ñiếc, thường không nghe tiếng gì : thích ở ngón tay
cái, ngón tay trỏ, chổ cách móng tay bằng chiếc lá hẹ nằm ngang, ñều 1 vĩ. Có thể nghe tiếng ngay. Nếu không
khỏi, thích ở chỗ thịt và móng tay giáp nhau, có thể nghe ñược ngay. Nếu bịnh nhân có lúc vẫn nghe ñược thời
không thể thích. Nếu trong tai ù ù như gió : cũng thích bấy nhiêu vĩ. Bịnh bên tả, thích bên hữu, bịnh bên hữu,
thích bên tả.
Phàm chứng TÝ lúc ở chỗ này lúc ở chỗ nọ, ñi lại không có nơi nhất ñịnh. Nhận ở ngoài thịt, chỗ nào ñau thời
thích lấy mặt trăng mọc làm hạn. Khi dùng châm theo khí thịnh suy ñể tính số vĩ, nếu châm quá số ngày sẽ bị
thoát khí ; nếu không kịp số ngày, tà khí sẽ không kịp tả ra ñược. Bịnh bên tả thích bên hữu, bịnh bên hữu thích
bên tả, bịnh khỏi thôi không thích nữa ; vẫn chưa khỏi lại thích ñúng như phép. Theo mặt trăng khi mọc, ngày thứ
1, một vĩ, ngày thứ 2, 2 vĩ... Rồi nhiều dần ñến ngày thứ 15 thời 15 vĩ. Qua ngày thứ 16, thời 14 vĩ, rồi bớt dần....
* Tà khách ở kinh mạch Túc DƯƠNG MINH, khiến người CỪU-NỤC (máu chảy ra ñằng mũi) : thích ở chổ thịt
giáp liền với móng 2 ngón chân giữa và ngón vô danh ñều 1 vĩ ; bịnh bên tả thích bên hữu, bịnh bên hữu thích
bên tả.
* Tà khách ở lạc của Túc THIẾU-DƯƠNG, khiến người Hiếp (lườn) ñau không thể thở, khái mà hãn ra : thích ở
chỗ thịt giáp liền với 2 ngón chân vô danh và ngón út, ñều 1 vĩ. Về chứng « không thể thở » sẽ khỏi ngay ; chứng
hãn ra cũng chỉ ngay. Còn chứng Khái : phải cho mặc áo ấm, và cho ñiều dưỡng thêm bằng thức ăn có tính ôn,
một ngày sẽ khỏi. Bịnh bên tả thích bên hữu, bịnh bên hữu thích bên tả, bịnh khỏi ngay. Nếu vẫn không khỏi, lại
thích ñúng như phép trước.
* Tà khách ở lạc của Túc THIẾU-ÂM, khiến người ñau ở cuống họng, không thể nuốt thức ăn, không vì cớ gì
mà cũng hay nộ, khí dẫn ngược lên Bí-môn, thích mạch Trung-ương ở dưới chân 3 vĩ, tất cả 6 lần thích khỏi ngay.
Bịnh bên tả thích ở hữu, bịnh bên hữu thích ở tả. – Cuống họng sưng không nuốt ñược nước miếng, cũng có lúc
không nhổ ra ñược, thích ở trước Nhiên-cốt, cho xuất huyết, khỏi ngay. Bịnh bên tả, thích ở hữu, bịnh bên hữu,
thích ở tả.
*
Tà khách ở lạc của Túc THÁI-ÂM khiến người yêu thống rút suống Thiếu-phúc, ñau ran cả bên sườn, không
thể nằm ngửa, thích giải huyệt khoảng yêu và Cầu-cốt, và trên 2 « thăn » (thịt giáp xương sống) ñó là Yêu-du. Lấy
mặt trăng lặn mọc làm số vĩ, rút châm khỏi ngay. Bịnh bên tả thích ở hữu, bịnh bên hữu thích ở tả.
* Tà khách ở lạc của Túc THÁI-DƯƠNG khiến người co rút, lưng gò, ñau rút xuống Hiếp. Thích từ cổ trước,
ñếm từng ñốt xương sống, ñếm vừa nhanh vừa án tay mạnh, gặp chỗ nào ñau thích ngay, 3 vĩ khỏi ngay.
* Tà khách ở lạc của Túc THIẾU-DƯƠNG khiến người ñau nhức ở khu-trung (tức 2 huyệt Hoàng-Khiêu ở ñùi)
không thể cất ñùi lên ñược. Dùng « hào » (tên một thứ châm) ñể châm. Nếu bịnh Hàn thời châm lâu, theo mặt
trăng lặn mọc làm số vĩ, khỏi ngay.
ðiều trị các kinh-biệt, nếu chỗ tà khí ñi qua mà không bịnh, thời dùng phép MẬU THÍCH
(1)
(1)-. Trên ñây nói về « biệt mạch » của 12 kinh – tức gọi là KINH BIỆT – Biệt mạch của 12 kinh này cũng do Dương chạy
sang Âm, do Âm chạy sang Dương. Cho nên ñiều trị nó nên dùng phép CỰ THÍCH. Nếu tà khí ở cái nơi ñi qua không phát bịnh
ñó là tà thịnh ở bên tả mà bịnh phát ra ở bên hữu ; hoặc tà thịnh ở bên hữu mà bịnh phát ra ở bên tả... Hoặc tà ở kinh Dương
mà lại di dịch sang kinh Âm, tà ở kinh Âm mà lại di dịch sang kinh Dương... Vì vậy, nên bịnh ở bên tả lại phải thích ở bên hữu ;
bịnh ở bên hữu lại phải thích ở bên tả...
Án : trở lên 12 kinh-biệt cũng ñều lệ thuộc với 5 Tạng, cho nên dưới ñây nói ñến « tà khách ở khoảng 5 Tạng v.v.... »