19
số vĩ....”
ðó tức là cái nghĩa nhiều ít, như : “
mùa Xuân, Du ở cổ gáy, mùa Hạ du ở Hung, hiếp ; mùa Thu du ở Kiên, bối ; mùa
ðông du ở Yêu, cổ...”
ðó tức là cái nghĩa cao thấp.
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
--. Huyết khí ñã dồn, bịnh hình ñã thành, âm-dương ñã lệch (không quân bình) ; nên bổ tả như thế nào ?
--. Muốn tả Thực : chờ cho khí thịnh, sẽ “nạp” châm... Châm với khí cùng nạp (tức thích vào), ñể mở cửa cho
tinh khí lưu ở trong ; rồi châm với nhiệt-tà cùng rút ra ; như thế tinh khí sẽ không bị thương, mà tà khí cũng giáng
xuống ; ñừng vít lỗ châm cho bịnh rút ra ; lại xoay chuyển mũi châm cho ñường lối thêm rộng ; ñó tức là phương-
pháp ñại tả. Kíp dồn cho ra, ñại-khí (tức là khí) mới ra.
--. Bổ hư như thế nào ?
--. Tay cầm châm, chú ý vào châm. Chờ lúc bịnh nhân thở ra (HÔ) sẽ nạp châm ; chờ lúc bịnh nhân hút vào
(HẤP) sẽ rút châm. Lúc nạp châm ñừng xoay chuyển, khiến tịnh-khí không thể tiết ra ñược ; chờ lúc chính-khí ñã
thực, sẽ kíp rút châm ; lựa cho chính khí lọt vào, giữa lúc châm vừa mới rút ra thời nhiệt-tà không thể lại lọt vào
trong... Khí-môn ở bên trong ñã ñóng thời tà-khí sẽ phải bố tán ở bên ngoài, mà tinh khí sẽ còn giữ ñược mãi.
Dưới châm khí ñộng, ñợi lúc ñến nơi, khiến cái khí “thiển cận” không tán thất ra bên ngoài ; cái khí “thâm viễn”
ñược giữ yên ở bên trong. ðó tức là một phương-pháp bổ chính mà lại kiêm cả tán tà vậy.
Hoàng-ðế hỏi rằng :
--. Phu-tử nói hư thực có 10 loại, sinh ra bởi 5 Tạng. Năm Tạng chỉ có 5 mạch thôi. Ngẫm như 12 kinh ñều
sinh ra bịnh ; giờ Phu-từ chỉ nói riêng 5 Tạng. Vậy 12 kinh mạch kia ñều “lạc” ba trăm sáu mươi lăm tiết (khớp
xương). Mỗi tiết có bịnh tật phải lây sang kinh mạch. Bịnh ở kinh mạch ñều có hư thực, vậy lẽ ñó thế nào ?
Kỳ-Bá thưa rằng :
--. 5 Tàng hợp với 6 Phủ cùng làm biểu-lý, kinh mạch chi tiết, ñều sinh hư thực. Hễ bịnh ở nơi nào sẽ theo
ngay nơi ñó ñể ñiều trị. – Bịnh tại mạch, ñiều trị ở huyết ; bịnh ở huyết, ñiều trị ở lạc ; bịnh tại khí ñiều trị ở Vệ ;
bịnh tại Nhục, ñiều trị ở phận nhục ; bịnh tại Cân, ñiều trị ở Cân ; bịnh tại Cốt, ñiều trị ở cốt.
ðốt châm (ñem châm ñốt cho nóng), ñể thích ngay vào nơi bịnh cấp ; nếu bịnh tại cốt, thời ñốt châm cho
nóng, “nhúng” vào nước thuốc rồi sẽ châm ; châm rồi lại dùng thuốc ñể “chườm”
(1)
(1)-. “ðốt châm” nguyên Hán-văn là “phần châm” (chữ phần cũng có âm là phiền) tức như ngày nay Tây-y lúc sắp “tiêm”
ñem ñốt kim tiêm. – Về phép này, chuyên ñối với “cấp bịnh” mới phải dùng.
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
Bịnh ñau, mà không biết ñau ở ñâu, nên thích ở trên LƯỠNG KIỂU. (ðau một cách lan man, không nhất ñịnh
nơi nào. Kiểu-mạch khởi từ Túc-khoả).
Thân hình có hơi ñau, mà xét ở chín “hậu” lại không có bịnh, thời dùng phép MẬU-THÍCH
(1)
(1)-. ðau bên tả, thích bên hữu ; ñau bên hữu, thích bên tả, gọi là Mậu-thích. Về phép này, dưới ñây ñã có một thiên
chuyên nói về MẬU-THÍCH. ðây miễn giải.
_________________________________ KINH VĂN ______________________________________
ðau bên tả mà mạch bên hữu mắc bịnh : dùng phép CỰ-THÍCH ñể ñiều trị. Phải cẩn thận tinh tế xét ở chín
Hậu, thời ñối với phép châm sẽ ñược hoàn toàn.
Phép CỰ-THÍCH cũng nói rõ ở thiên MẬU-THÍCH.,.
-- o0o --