HOÀNG ĐẾ NỘI KINH TỐ VẤN - Trang 30

30

(1)-. CHẨN : tức là án 3 ngón tay vào bộ-vị “Quan, Xích, Thốn” của bịnh nhân ñể nhận luồng của mạch máu chạy ở trong. ðó là

“chẩn mạch”. Chữ CHẨN ở ñây thời lại bao gồm cả 3 phương pháp “VỌNG, VĂN, VẤN”. Nên về sau ñối với việc thăm bịnh
thường gọi là TỨ CHẨN (4 phép chẩn) tức là “ VỌNG-VĂN-VẤN-THIẾT”. Thiết cũng tức là ñể tay nhận mạch.

-- Trên ñây nói : sắc là dương, huyết là âm ; nhưng tự trong “sắc” lại cũng có âm, dương khác nhau. Ở trong mạch cũng có
âm dương khác nhau. Vậy người khéo chẩn cần trước phải phân biệt âm dương mới có thể hiểu ñược chính xác.

(2)-. Về sắc mặt, có sáng sủa (thanh) hay ảm ñạm (trọc) khác nhau ; nhận rõ bộ phận của nó, sẽ biết ñược bịnh ở nơi nào --.

Phép này thuộc về VỌNG.

(3)-. Nghe hơi thở và tiếng nói, cũng biết ñược sự ñau ñớn của bịnh nhân như thế nào. Hai ñiều này thuộc về “VỌNG và VĂN”.
(4)-. Xem sự phản ứng của mạch hợp với 4 mùa như thế nào :

- Về mùa Xuân, mạch ứng với QUI (thước tròn) vì dương khí mềm mại, có vẻ như thước tròn.

- Về mùa Hạ, mạch ứng với CỦ (thước vuông) vì dương khí mạnh mẽ, có vẻ như thước vuông.

- Về mùa Thu, mạch ứng với HÀNH (cán cân) vì âm dương lên xuống, cao thấp phải ñều, có vẻ như cán cân.

- Về mùa ðông, mạch ứng với QUYỀN (quả cân) vì mùa ðông dương khí sụt xuống bộ phận dưới, có vẻ nặng như quả

cân.

(5)-. THỐN : chủ về bộ phận trên thuộc Dương ; XÍCH chủ về bộ phận dưới, thuộc Âm. Mạch PHÙ là mạch ở Biểu, thuộc dương

; mạch TRẦM là mạch ở Lý, thuộc âm ; mạch HOẠT là bịnh tại Khí, thuộc dương ; mạch SẮC là bịnh tại Huyết, thuộc âm. Xét
mạch nó ở trên dưới, biểu lý, hay khí huyết… ñể nhận xem bịnh từ ñâu sinh ra.

(6)-. Chẩn mạch người mắc bịnh, lại chẩn cả người vô bịnh ñể cùng so sánh suy nghiệm. ðó chính là một phương pháp học

chẩn rất cần thiết.



KINH VĂN ________________________________________________________________________

Bịnh khi mới phát sinh có thể dùng châm-thích cho khỏi

(1)

. Khi bịnh thế ñã thịnh, ñừng vội rút bỏ châm, ñợi tà-

khí suy dần sẽ thôi

(2)

.

Nhân cái lúc bịnh tà còn nhẹ, mà phạt Dương cho nó tiết ra

(3)

. ðến khi bịnh thế ñã thịnh, phải ñể cho nó giảm

bớt dần ; ñến khi bịnh thế suy thời phải giúp ích chính-khí cho nó ñầy ñủ thêm

(4)

.

Hình bất túc : dùng khí ñể ÔN ; Tinh bất túc : dùng vị ñể BỔ

(5)

.



(1)-. THÍCH : dùng mũi “châm” tiêm vào trong “huyệt” ở da thịt. Khi bịnh mới phát sinh, tà khí còn ở ngoài bì phu, nên dùng

châm ñể “thích” có thể khỏi ngay ñược.

(2)-. Nếu bịnh ñã nặng, tức là tà khí tụ nhiều : ñể châm thong thả, ñừng rút ra vội, ñể cho tà khí rút bớt ra dần.
(3)-. Bịnh mới phát sinh, dùng châm nhẹ mà nông. Bịnh ñã lâu thời dùng châm mạnh mà sâu.
(4)-. ðến lúc cuối cùng, bịnh thế ñã suy, nên nhân cái lúc tà khí ñã suy mà làm cho chính-khí ñược mạnh thêm lên.

ðây nói về phương pháp dùng châm, chia làm 3 thời kỳ, tức là “ SƠ-TRUNG-MẠT”.

-- SƠ : tức là thời kỳ “CÔNG” (ðánh ñuổi tà khí ñi);

-- TRUNG : thời kỳ “ðIỀU HÒA” (dùng cách dịu dàng, êm ái ñể dần dần dồn bỏ bịnh tà);

-- MẠT : (cuối cùng) tức là thời kỳ THÂU-BỔ.

Tiết này tuy nói về phương pháp dùng châm, mà về phương pháp “dụng dược” cũng không ra ngoài phạm vi ấy.

(5)-. HÌNH : hình thể cơ nhục ; TINH : âm-tinh của 5 Tạng. Câu này dạy cho y-giả biết dùng thuốc không nên thiên về một bên.

Như trên kia có nói : “

vị theo về Hình, Hình nhờ về vị”. Vậy nếu hình bất túc, thời nên lấy vị ñể làm cho ÔN.

ðây lại nói

: “

dùng khí ñể ÔN…”

. nhưng trên lại nói : “

vị làm thương Hình…”.

Xem ñó thời biết “vị” cũng có khi làm thương Hình. Nhưng

vị lại không thể không có khí, nên mới nói : “

dùng khí ñể ÔN, không nên chuyên dùng vị”

tức là theo cái nghĩa “

ñộc âm thời

không sinh”

vậy (như dùng âm-dược phải kèm cả dương-dược).

Trên kia có nói : “

KHÍ theo về TINH, TINH nhở ở KHÍ…”.

Vậy nếu Tinh bất túc thời nên lấy khí ñể BỔ. ðây lại nói : “

lấy

vị ñể Bổ” --.

Nhưng trên lại có nói : “

Khí làm thương TINH…”

thời thiên về bên Khí cũng có thể làm thương ñến Tinh ; nên

khí tất lại phải có cả vị. Nên mới nói : “

dùng vị ñể BỔ”

không nên chuyên dùng khí ; tức là cái nghĩa “

cô Dương thời không

thành”

vậy. (như dùng dương-dược phải kèm cả âm-dược).



KINH VĂN ________________________________________________________________________

Nếu tà ở bộ phận cao : làm cho nó vọt lên ; nếu ở bộ phận dưới : dẫn cho nó hạ xuống ; nếu ñầy ở bộ phận

giữa : nên do trong mà tả ñi

(1)

.

Nếu là tà ở ngoài Biểu : tẩm vào nước cho phát hãn

(2)

; nếu ở Bì-mao : làm cho phát tán

(3)

; nếu tà quá mạnh :

nên dùng phép án-ma cho thâu dẫn

(4)

; nếu là Thực : nên tán và tả

(5)

.

Xét rõ âm dương ñể chia nhu-cương

(6)

. Dương bịnh trị ở âm. Âm bịnh trị ở dương

(7)

.

ðịnh rõ khí-huyết, cần giữ bộ vị

(8)

; nếu huyết thực : làm cho nó hành ; nếu khí hư : nên tuyên dẫn cho thông-

xướng

(9)

.



(1)-. Con người chia làm 3 bộ phận : ở trên thuộc Dương, ở dưới thuộc Âm. Nếu ở vào khoảng Hung-cách nên làm cho nó vọt

lên – tức là dùng phương pháp THỔ. Nếu bịnh tà ở bộ phận dưới : nên dẫn cho nó hạ xuống – tức là Thấp ở bộ phận dưới,
nên dùng phép làm cho lợi tiểu tiện. --. ðầy ở bộ phận giữa (tức là Trung-mãn), phần nhiều do súc tích, tà khí hữu dư, thời
dùng phép TẢ ñi – tức là dùng thuốc HẠ.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.