vào cốc rượu, yêu cầu tù trưởng cũng làm y như vậy, rồi cùng siết chặt tay
nhau đứng giữa nhà rông khẳng định tình đoàn kết: “Kinh-Thượng một
lòng cứu dân, trừ bạo!”. Dứt lời, anh nâng cốc uống phân nửa, còn một nửa
yêu cầu tù trưởng phải cạn. Buông tay tù trưởng, Quang Diệu lấy máu đại
diện hai dân tộc viết lên tấm vải trắng dòng chữ ấy.
Anh vừa viết xong, dân làng tôn kính tranh nhau đem treo lên giữa nhà
chung làm vật thiêng liêng. Cứ như thế, làng nào cũng mong muốn và yêu
cầu có được dòng chữ hòa hợp từ máu con tim của Quang Diệu, một tướng
lĩnh Tây Sơn được đồng bào Hrê tôn kính trương lên giưã nhà chung.
Sau đó, buôn làng nào cũng động viên con em gia nhập nghĩa quân
Tây Sơn ngày càng đông và cùng theo ông Diệu về căn cứ, chuẩn bị công
tác sắp tới.
***
Đội công tác thu phục lòng dân hết miền ngược, lại tiếp tục đi đến
miền xuôi. Dọc theo miền triền núi, nơi nào Nguyễn Huệ và Quang Diệu
cũng sâu sát đến từng tư tưởng và tình cảm của nhân dân. Biết rằng, lòng
dân vô cùng oán thán các triều đình đương đại, nhưng không dám đáp lại
lời kêu gọi của nghĩa quân Tây Sơn, vì họ cho rằng: Anh em Tây Sơn
không đủ thực lực và uy thế để chống lại triều đình. Cũng bởi cái tư tưởng
chính thống, vua là thừa mệnh trời trị vì thiên hạ, cònquân phản nghịch
không bao giờ làm nên nghiệp lớn. Điều đó đã ăn sâu trong tiềm thức của
dân tộc Việt qua nhiều triều đại, khó bề gọt dũa.
Giờ phải làm sao cho họ linh động để hiểu, ai là người đức độ tài năng
và được ông trời sai xuống trần gian trị vì thiên hạ. Còn kẻ nào đã lợi dụng
thời cuộc đục nước béo cò, vơ vét của dân, hảm hại người tài năng chân
chính sẽ bị loại trừ. Nguyễn Huệ sáng ra ý nghĩ, phân công bọn tùy tùng bí
mật leo lên những cành cây cổ thụ có lá to mọc gần bên bờ suối, lấy mỡ
viết lên trên lá tám chữ: “Nguyễn Nhạc vi quân, Nguyễn Huệ vi thần!”.