hiện. Đến lúc chơi bài, và hỏi thăm, thì người ta trả lời rằng phu nhân de
Sauve mỗi lúc một ốm nặng thêm.
Suốt buổi tối, bà lo lắng và những người ngoài cuộc cứ khắc khoải tự hỏi
những suy tư nào có thể làm xao động gương mặt bình thường của bà vốn
thản nhiên đến thế.
Tất cả mọi người đều lui chầu. Catherine để các thị nữ cởi áo cho mình và
đưa đi nằm. Rồi khi tất cả mọi người đều đã ngủ yên trong cung Louvre, bà
trở dậy, mặc một chiếc áo ngủ đen, lấy một cây đèn, lựa trong số các chìa
khoá lấy chiếc chìa mở được cửa phòng phu nhân de Sauve và lên cầu
thang tới phòng vị nữ quan của mình.
Phải chăng Henri đã đoán trước được cuộc viếng thăm này hay ông mắc
bận ở phòng mình, hoặc là ông nấp vào đâu đó. Tóm lại là người thiếu phụ
chỉ có một mình ở trong phòng.
Catherine cẩn thận mở cửa, đi qua phòng ngoài, bước vào phòng khách. Bà
đặt cây đèn trên một cái tủ vì một ngọn đèn đêm đã được thắp bên người
ốm, rồi như chiếc bóng ma, bà lách vào phòng ngủ.
Dariole nằm trong ghế phô-tơi lớn đang ngủ cạnh giường chủ mình.
Chiếc giường đó được khép kín hoàn toàn sau những bức màn.
Hơi thở của thiếu phụ nhẹ đến nỗi có lúc Catherine đã tưởng nàng không
thở nữa.
Cuối cùng bà nghe thấy một hơi thở nhẹ. Với niềm vui tinh quái bà tới vén
màn lên để được tự mình nhìn thấy hậu quả của thứ thuốc độc khủng khiếp.
Chưa gì bà đã run người mong nhìn thấy vẻ nhợt nhạt cắt không còn hạt
máu hoặc màu đỏ hừng hực của cơn sốt chết người. Nhưng thế vào đó, bà
nhìn thấy người thiếu phụ xinh đẹp bình thản, mắt nhẹ nhàng khép kín, cái
miệng hồng hé mở, đôi má mát rượi tỳ nhẹ lên trên một cánh tay tròn trĩnh
duyên dáng của nàng còn cánh tay kia tươi mát nõn nà duỗi dài trên tấm
gấm sẫm màu lam chăn của nàng. Thiếu phụ ngủ mà vẫn còn như cười,
chắc một giấc mơ dễ thương nào đó đã khiến trên môi nàng nở nụ cười và
tô trên má nàng màu của một niềm hạnh phúc êm dịu.
Catherine không kìm được thốt lên một tiếng kêu, làm Dariole thức dậy
mất một lúc.