nào cũng chằng chịt dấu chân, dọc đường còn có vài thây ma bị đóng băng
cứng ngắc giữa đồng.
Lưu Nghiễn đắn đo: “Không an toàn lắm, có lẽ còn một số vẫn chưa bỏ
đi… Huống hồ thức ăn đều đã được đoàn xe khuân đi hết rồi, chúng ta về
đó làm cái gì?”
Mông Phong nói: “Biết đâu có thể tìm thấy cái gì còn sót lại… Mà thôi.”
Anh cũng tự thấy không được an toàn, nhất là trong tình trạng hết đạn
cạn lương như lúc này đây, thật sự là hết đạn cạn lương đúng nghĩa.
Trương Dân: “Có liên lạc được với anh em trong đoàn xe không?”
Lưu Nghiễn lắc đầu: “Không có máy bộ đàm, mà cho dù có, khoảng
cách quá xa cũng chẳng thể liên lạc được.”
Trương Dân mở bản đồ ra, đề nghị: “Vậy thì… Ờ, chúng ta chơi trò giải
đố nhanh ‘Mọi người đã đi đâu’ nhé…”
Mông Phong và Lưu Nghiễn đồng thanh kêu lên: “Bọn này không phải
con anh đâu! Đi mà chơi với Quyết Minh ấy!”
Trương Dân bật cười, Lưu Nghiễn nói: “Đi vào thị trấn tiếp tế đi, tôi có ý
này.”
Cậu lấy một băng cát sét ra lật mặt lại, nhét vào cái radio đời cũ trước xe,
bản “Yellow surbmarine” của The Beatles du dương cất lên, sau đó đánh xe
chạy vào ngã rẽ, tiến về đường phía tây, cách đó hai mươi dặm có một thôn
nhỏ, là chỗ mà cả bọn đã từng càn quét qua.
Chẳng mấy chốc đã tới nơi, đập vào mắt là một đống đổ nát, cảnh vật
vẫn y hệt như lúc họ rời đi, Mông Phong đổi sang khẩu AK đi xuống tuần
tra một lần nữa, Lưu Nghiễn dặn theo: “Tìm trong những cái rương ở nhà
dân xem có gì không.”
Trên nóc nhà đậu vài con quạ đen, lũ chuột lủi đi lủi lại trên mặt đất lạnh
lẽo.
Một con chuột con vục vào cái xác thây ma nát đầu, lục lọi chút thức ăn
sót lại trong mớ đổ nát.
“Anh nhìn kìa.” Lưu Nghiễn nói: “Chuột cũng không đụng tới xác chết.”