vận áo giáp sáng choang và thủ theo một thanh trường kiếm. Tiếp đến là Tào
học sĩ và hai chủ phường hội khác.
Phía trước khoảnh sân đã dựng sẵn một bục nổi, trên đó đặt một án thờ tròn
được trang trí lộng lẫy bằng khăn lụa và hoa tươi. Bản sao bằng gỗ tuyết
tùng của bức tượng Phật Di Lặc được đặt trang trọng chính giữa án, dưới
một tấm màn trướng tía giăng trên bốn cây cột mạ vàng.
Khoảng năm mươi tăng nhân ngồi xung quanh án thờ. Những sư thầy bên tả
thì chơi nhạc khí, còn bên hữu thì lầm rầm tụng kinh. Bao quanh bục là một
hàng rào kỵ binh giáp trụ sáng loáng và khôi sắt chỉnh tề. Tứ phía xung
quanh họ là đám đông chen lấn, những ai không tìm được chỗ thì tạm thời
đu bám trên bệ các trụ cột sắp thành hàng phía trước gian nhà bên.
Kiệu của Địch Nhân Kiệt được hạ xuống tại lối vào sân nội sảnh. Một phái
đoàn bốn vị lão tăng chói lọi trong bộ áo cà sa lụa vàng đến nghênh đón ông.
Khi huyện lệnh được dẫn xuyên qua con đường hẹp giới hạn bởi dây thừng
chăng ngang nối đến khoảnh sân trên, ông nhận thấy trong đám đông có
nhiều thuyền nhân người Hán và Cao Câu Ly đến để thờ phụng vị thần hộ
mệnh của họ.
Địch Nhân Kiệt đi lên sân trên, hơi cúi đầu chào đức trụ trì thấp bé. Ông
thưa với đại hòa thượng rằng áp lực xử lý công vụ đã khiến mình chậm trễ.
Đức trụ trì hòa nhã gật đầu, lấy bình nước cam lồ ra rảy lên Địch Nhân Kiệt.
Rồi Địch Nhân Kiệt ngồi xuống, ba trợ thủ án ngữ phía sau chiếc ghế của
ông. Viên Vệ úy, Cố Mạnh Bình và những vị khác đều đứng dậy và khấu
thấp đầu thi lễ trước huyện lệnh. Khi tất cả đã an tọa, đức trụ trì ra hiệu và
tiếng nhạc trỗi dậy. Các nhà sư bắt đầu tụng một bài kinh trang nghiêm ca
ngợi Đức Phật.
Khi bài kinh gần kết thúc, quả chuông đồng lớn của Phật tự đã bắt đầu âm
vang. Trên bục, mười tăng nhân do sư thầy Huệ Bản dẫn đầu bắt đầu bước
chậm rãi vòng quanh án thờ, đung đưa các thủ lư của họ. Làn khói nhang