mình thật thấp để chào mụ rồi chạy về thị trấn ven biển, lòng dào dạt niềm
vui.
Phù thủy nhìn theo, cho đến khi bóng chàng đã khuất xa tầm mắt mụ mới
quay vào trong hang lấy ra một cái gương từ trong một cái hộp làm bằng gỗ
tuyết tùng rồi đặt cái gương lên kệ, đốt một chất bột gì đó trước cái lò than
con ong và nhìn qua những cuộn khói bốc lên. Một lát sau, mụ nắm chặt hai
bàn tay lại vì giận dữ: “Chàng trai sẽ phải là của ta, bởi vì ta cũng xinh đẹp
chẳng kém gì cô ả”.
Buổi tối, khi trăng bắt đầu lên cũng là lúc chàng đánh cá leo lên đỉnh núi và
đứng đợi dưới gốc cây trăn. Giống như một cái đĩa kim loại khổng lồ sáng
bóng, biển êm đềm trải ra vô tận dưới chân chàng. Xa xa thấp thoáng bóng
những con tàu đánh cá di chuyển trong cái vịnh nhỏ. Một con cú lớn có đôi
mắt phát ra ánh lưu huỳnh màu vàng gọi tên chàng nhưng chàng không đáp.
Một con chó mực chạy về phía chàng nhe răng gầm gừ. Chàng bẻ một cành
liễu xua nó đi và con chó cụp đuôi lại bỏ đi, vừa đi vừa rên ư ử.
Vào lúc nửa đêm bầy phù thủy bay đến như một đàn dơi. “Phù!” Chúng kêu
lên khi đáp xuống đất, “làm như có một ai ở đây mà bọn ta không biết!”
Chúng hít hít, đánh hơi, í ới nói chuyện với nhau và ra dấu. Người cuối
cùng xuất hiện chính là phù thủy nọ, mái tóc dài màu đỏ bay tung trong gió.
Mụ mặc một tấm áo dài thêu con mắt chim công, đầu đội một chiếc mũ
nhung xanh xinh xinh.
“Hắn ở đâu, hắn ở đâu?” Bầy phù thủy nhao nhao hỏi khi thấy mụ, nhưng
mụ chỉ cười, chạy đến gần cây trăn, dắt tay chàng đánh cá ra ngoài một
trảng cỏ dát đầy ánh trăng và họ cùng nhảy múa.
Quay tròn, quay tròn, phù thủy nhảy lên cao đến mức chàng trai có thể nhìn
thấy cả cái gót giày màu đỏ của mụ. Chợt vẳng đến tai các vũ công tiếng vó
ngựa phi nước đại, nhưng chẳng thấy bóng một con ngựa nào và chàng cảm
thấy sợ hãi.