- Lạy chúa, thế là cuối cùng cậu đã trở về, cậu thân mến. Tôi
cứ ngỡ rằng cậu đã chết từ bảy năm nay, vậy mà cậu vẫn còn sống.
Thoạt nhìn, tôi đã nhận ra cậu ngay. Khó khăn lắm tôi mới che nổi
mắt con chó sói ấy. Thưa cậu, tôi già nua, nghèo nàn thật, nhưng
xin thề với cậu rằng tôi chỉ biết nói thật, dù có phải vì thế mà bị
treo cổ cũng cam lòng.
- Không được, - Hen-đân nói, - đừng nên thế. Như vậy lão sẽ tự
giết mình mà chẳng giúp được gì cho ta cả. Dẫu sao ta cũng rất cám
ơ
n lão, lão đã đem lại cho ta phần nào niềm tin vào con người mà
ta đã mất.
Từ đó ông lão hằng ngày ra vào vài ba lần dường như để chế
nhạo, mạt sát bọn tù, nhưng thường mang theo đồ ăn thức uống
ngon lành cho Hen-đân và nhà vua. Hen-đân nhường cả phần bánh
kẹo của mình cho nhà vua; thiếu bánh kẹo có lẽ ngài không sống
nổi, vì ngài cũng chẳng còn đủ sức để nuốt nổi khẩu phần thức ăn
kinh tởm của nhà tù.
Ngoài ra, mỗi lần đến, ông lão lại khéo léo thì thầm vào tai
Hen-đân vài câu gì đấy, rồi sau đó lại giả vờ to tiếng xỉ vả ông.
Cứ thế dần dần Hen-đân cũng biết hết những việc xảy ra
trong gia đình mình. Sáu năm trước, Ác-tơ chết. Cái chết của Ác-tơ
và sự biệt tăm của Mai Hen-đân đã làm cho sức khỏe của cha ông suy
sụp nhanh chóng. Biết rằng mình sắp chết, cha ông muốn cho
E-đi, con gái đỡ đầu của ngài, lấy Hắc. Nhưng E-đi đã kéo dài thời
gian cưới, hi vọng rằng Mai sẽ trở về. Thế rồi có tin Mai đã chết,
và đó là một đòn nặng làm cho ngài Ri-sớt nằm liệt giường. E-đi xin
hoãn cưới một tháng, hai tháng rồi ba tháng, và cuối cùng hai
người phải làm lễ cưới bên cạnh thi hài ngài Ri-sớt. Thật là một đám
cưới bất hạnh! Có tin đồn rằng sau ngày cưới ít lâu, E-đi tìm thấy