tiếp tục quan sát anh thêm nữa. Về sau mới biết anh mua chiếc cà vạt ấy ở
Rome.
Giờ thì sau khi đã quan sát anh một lúc tôi không biết thêm gì ngoài
việc anh khá cân đối, hai bàn tay trông linh hoạt, không quá nhỏ và khi anh
ngồi trên ghế quầy bar, tôi thấy anh có đôi chân rất ngắn. Nếu đấy là một
đôi chân bình thường, hẳn anh phải cao thêm được năm phân. Chúng tôi
uống hết chai sâm banh đầu tiên rồi bắt sang chai thứ hai và bài diễn văn
của anh có vẻ như sắp kết thúc.
Cả Dunc và tôi thấy dễ chịu còn hơn cả trước khi uống chai sâm banh
đầu tiên và thật tuyệt khi thấy bài diễn văn đi vào đoạn kết. Đến lúc đó tôi
mới nhận thấy thì ra tay nhà văn vĩ đại ghê gớm là tôi ấy xưa nay chỉ biết
sống kín bưng trong thế giới của hai vợ chồng cùng một vài người quen biết
và nói chuyện được. Tôi vui sướng vì Scott đã cho cái tầm vóc có khả năng
vĩ đại kia một cái kết có hậu, nhưng tôi còn vui sướng hơn vì anh bắt đầu
nguôi cơn thuyết trình. Tuy nhiên, sau bài diễn văn lại đến phần đặt câu hỏi.
Ta có thể quan sát anh tỉ mỉ để lờ đi bài diễn văn, nhưng không thể tránh
các câu hỏi. Và tôi thấy Scott thật sự nghĩ rằng người viết tiểu thuyết nếu
muốn biết những gì mình muốn thì chỉ cần hỏi thẳng bạn bè hay người quen
biết là xong. Cuộc thẩm vấn thẳng tưng.
“Ernest,” anh nói. “Tôi gọi anh là Ernest có được không?”
“Hỏi Dunc xem sao,” tôi đáp.
“Đừng vớ vẩn. Nghiêm túc đấy. Này, anh và vợ có ngủ với nhau trước
khi cưới không?”
“Tôi không biết.”
“Không biết nghĩa là sao?”
“Tôi không nhớ.”
“Làm sao không nhớ một chuyện quan trọng như thế?”