dung. Và dường như khi thể loại chân dung lụi tàn đi trong đời Tống (thế
kỷ 11 và 12) thì thể loại phong cảnh và thiên nhiên lại tái sinh. Đời Tống
hầu như không sản sinh ra được một tác phẩm chân dung nào có giá trị,
nhưng lại có rất nhiều tranh chim hoa cầm thú tuyệt hảo. Thời của những
Cố Khải Chi, Lục Thám Vi và Ngô Đạo Tử đã qua rồi. Trong triều đại của
Hoàng đế Huệ Tông, người ta nô nức vẽ chim, hoa, ngỗng, và các con vật
trong vườn thượng uyển.
Biến động đó có thể cũng liên quan đến việc ra đời của trường phái “văn
nhân họa” do ảnh hưởng của Tô Đông Pha. “Văn nhân họa” coi vẽ là trò
múa bút của người học giả. Rõ ràng là món “tứ quý” của người quân tử –
Mai, Lan, Cúc, Trúc – đều có thể phóng bút vẽ rất nhanh, như thể viết chữ
thảo vậy. Thế là các học giả bắt đầu thi nhau vẽ “tứ quý”. Trong khi những
họa sỹ nghiêm túc suốt đời tìm kiếm sự hoàn thiện trong tranh phong cảnh,
người ta cũng nhận thức được rằng vẽ chân dung còn khó hơn nhiều. Đổng
Kỳ Xương đã nói ông không bao giờ có thể vẽ được một bức chân dung.
Mà thực tế là rất ít họa sỹ có thể vẽ được chân dung. Tình trạng này dẫn đến
một hiện tượng là ngày nay, trong khi người phương Tây xem tranh Trung
Quốc thường bị choáng ngợp trước những phong cảnh núi non và thiên hình
vạn trạng khác của thiên nhiên, người phương Đông vào các bảo tàng
phương Tây lại bị choáng ngợp bởi một thế giới đầy ắp những da thịt và
người khoả thân.
Biểu đồ Thể loại (của hội họa Trung Quốc) sẽ giúp người đọc dễ dàng
nhìn thấy sự thăng trầm của các thể loại tranh qua suốt các triều đại. Các
đường biểu diễn sự lên xuống của từng thể loại được vẽ dựa trên sự có mặt
và tiếng tăm của các họa sỹ sống trong từng triều đại, chứ không dựa trên số
lượng đếm được của các tác phẩm. Các họa sỹ tiêu biểu cho từng thể loại là
như sau:
Chân dung và tranh vẽ Phật: Tào Bát Hưng, Cố Khải Chi, Lục Thám Vi,
Trương Tăng Dụ, Ngô Đạo Tử, Trương Huyên, Chu Phương, Chu Văn Cự,
Lưu Tùng Niên, Lý Công Lân, Đường Dần, Cừu Anh.