ngồi nhìn xuống, rồi đi xuống nhìn hình, cứ thế làm tôi hết sức khó chịu, nhất là khi tôi vẫn chưa tìm ra
cách giải bài toán hình học (tôi vốn rất kém môn này). Rồi trời đổ mưa, bài Như Hằng làm xong bị
ướt, chép lại không kịp... Sau đó Như Hằng phải trở về Trà Ôn ôn lại bài vở thi kỳ nhì. Trước khi về,
Hằng ghé ở chơi với tôi mấy ngày và cố ý nói xa gần về một người anh bà con tên Trúc Hà, đang dạy
ở các trường tư thục và cũng có viết văn làm thơ, cộng tác với Đông Hồ trên báo Sống.
Cũng vì việc tôi thi rớt kỳ 1 mà cha tôi không muốn tôi học viết văn với Nhứt Chi Mai nữa, để có
thì giờ tập trung học lại bài vở thi kỳ 2. Nghe lời cha, tôi viết thư báo với Nhứt Chi Mai vì bận học
thi, tôi phải tạm nghỉ và chờ một cơ hội khác. Vừa báo nghỉ thì vài ngày sau đó, các em tôi thấy một
người đàn ông ăn mặc rất sang trọng tay cầm cây can ngồi chễm chệ trên một chiếc xe kéo cứ chạy qua
chạy lại trước nhà. Hạnh chạy lại nép sau tấm màn trúc nhìn ra và chỉ cho tôi: “Đúng rồi, chị Hai ơi!
Cô Nhứt Chi Mai đó! Hí hí!”. Nhiễu, cô em thứ ba, bình luận: “Cô Nhứt Chi Mai này gan lì thiệt!”.
Tôi vừa thấy sợ vừa thấy vui vui trong lòng.
(Sau này, khi đã thân, Nhứt Chi Mai mới nói cho tôi biết là do từ đầu rất phục văn chương của tôi
nên anh đã nhờ những người đi phát báo - cha tôi đặt mua thường xuyên và tòa soạn cho người phát tận
nhà - xem thử mặt mũi tôi ra sao. Họ đều nói tôi rất đẹp. Nhứt Chi Mai liền tự đi tìm hiểu và thú nhận
là đã thương tôi ngay trong lần đầu biết mặt).
Cha tôi khi biết tin này càng cương quyết không cho tôi học nữa.
Từ đó, trên trang văn nghệ báo Sài Thành bắt đầu xuất hiện những bài thơ đại loại như thế này:
NHẮN AI
Từ khúc 1
Yêu nhau mới biết văn là nợ
Mến tiếng cần chi phải gặp người
Trăng tỏ bên trời
Hoa tỏ bên người
Trăng trong không vết hoa đua thắm
Biểu hiện lòng ta với ý người
Làm bạn lạ trên đời