những sứ giả gởi đi các thông điệp cho quốc dân đồng bào. Còn loại sách nhảm nhí như sách của các
tác giả mà cậu sinh viên nọ vừa nói thì có quyền đừng đọc đến. Ông Việt vừa nói xong thì Nguiễn Hữu
Ngư và Trần Dạ Từ đều quay xuống nói với tôi (khi tôi vào giảng đường trường Quốc Gia Âm Nhạc
họ có thấy và có chào): “Chị cứ để đó, tụi nầy sẽ lên trả lời cho chị”.
Nhưng tôi đã đứng lên và lên chỗ bàn thư ký để xin ghi tên phát biểu. Lúc ấy Minh Đức Hoài Trinh
ngồi ghi. Minh Đức nhìn tôi cười, còn chị Nghệ thì nói:
Chị không soạn bài mà dám phát biểu ngay à? Tôi thì không có tài ấy đâu.
Tôi cười và chờ đến phiên mình lên phát biểu. Không chờ đợi, tôi được mời lên ngay, vì ai chớ
Phạm Việt Tuyền hay Minh Đức Hoài Trinh thì có lạ gì tôi. Phạm Việt Tuyền cùng dạy ở trường Tân
Thịnh với tôi, và khi Phạm Việt Tuyền làm tờ Tự Do thì chính anh đã mời tôi giúp cho một tiểu thuyết
và tôi đã viết chuyện Gió Ngàn Phương (đã xuất bản trước 1975).
Tôi còn nhớ rõ hôm ấy tôi mặc bộ áo dài trắng (tôi luôn mặc áo dài trắng khi đi dạy, khi đến các
tòa soạn báo hay đi dự lễ hội, dự hội nghị), và sự hiện diện của tôi trước micro đã gây cho hội trường
một sự ngạc nhiên, nhất là khi Phạm Việt Tuyền trịnh trọng giới thiệu tôi là một cây bút có nhiều tác
phẩm cộng tác với nhiều báo hằng ngày và làm thư ký tòa soạn cho tuần báo Phụ Nữ Diễn Đàn, công
tác với báo Văn Nghệ Tiền Phong và còn là giáo sư dạy ở các trường tư thục. Hội trường bỗng im bặt
và chờ tôi phát biểu. Đầu tiên tôi cảm ơn ban tổ chức cho phép tôi có cơ hội lên để nói vài ý nghĩ thô
thiển, và tôi thành thật cám ơn cậu sinh viên vừa phát biểu đã nói đến tôi. Trong đời tôi, chê tôi cũng
quí như khen vì giúp tôi có kinh nghiệm tốt hơn khi sử dụng ngòi bút. Xong tôi đi ngay vào đề tài của
Thanh Lãng, một nhà văn là một sứ giả gởi thông điệp đến cho mọi người. Nhưng sứ điệp ấy phải như
thế nào để mọi người dù ở tầng lớp nào cũng có thể đọc hiểu được thì mới có thể tiếp nhận. Chứ
những quyển sách viết quá cao, đầy triết lý sâu xa thì đâu phải ai cũng có thể tiếp nhận một cách vui
vẻ và nồng nhiệt. Tôi nói tiếp: “Tôi không có khả năng để viết những loại sách cao siêu, cao thật cao
ấy (và tôi giơ tay lên ra dấu khỏi đầu) nhưng tại sao tôi lại chấp nhận số phận của người cầm bút? Tôi
có đọc một đoạn văn trên một tờ báo Pháp thấy có một nhà văn nam nào đó tuyên bố rằng: ‘Nếu tôi có
một ngai vàng thì tôi sẵn sàng đổi nó để tìm hiểu tâm lý phụ nữ’. Như thế thì tôi, một phụ nữ, tại sao
lại không viết để nói lên tâm lý của phụ nữ? Vì tôi đã trải qua thời kỳ niên thiếu dưới mái ấm gia đình
của cha mẹ, bên các em thân yêu, tôi đã từng là một thiếu nữ, tôi hiểu những ước muốn, những buồn
vui của giới thiếu nữ, của tuổi mới lớn. Tôi đã từng là một người vợ, một người mẹ. Tôi hiểu tâm sự
của người vợ khi gặp cảnh ngộ ngang trái, khi sống trong hạnh phúc, khi nuôi dạy các con, và hiểu
những đòi hỏi của các con mình. Tôi lại còn là một cô giáo từng đứng trên bục giảng và tìm hiểu
những đôi mắt thơ ngây, vô tư của lũ học trò đang muốn gì, ao ước được những gì. Vì những ước mong