chủ – những kẻ chia nhau những lợi nhuận bất chính này.
Những người chịu trách nhiệm là Jim Slater, Richard Tarling,
chủ tịch của Haw Par và Ogilvy Watson, giám đốc điều hành.
Watson trở về Anh trước khi trốn sang Bỉ, nước mà chúng tôi
không có hiệp ước dẫn độ. Slater và Tarling vẫn trú ở London.
Chúng tôi yêu cầu dẫn độ Slater và Tarling, nhưng chính phủ
Anh không dẫn độ Slater. Thay vào đó, vào năm 1979, sau ba
năm đấu tranh ở tòa án Anh, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Anh ra lệnh
dẫn độ Tarling chỉ với 6 tội danh với những hình phạt thấp nhất
trong số 17 tội danh. Tarling bị truy tố và bị tống giam sáu
tháng tù cho mỗi tội trong ba lời buộc tội về việc cố tình không
tiết lộ những tin tức quan trọng trong bản quyết toán lỗ lãi năm
1972 của Haw Par. Nhiều năm sau khi thôi chức thống đốc ngân
hàng Anh, Gordon Richardson lầm bầm trong văn phòng tôi
rằng ông ta lấy làm tiếc vì đã không giúp được Singapore truy tố
Slater ra tòa.
Trong những năm 70 và 80, danh tiếng về sự kỹ lưỡng và
kiên quyết của MAS (trong việc chỉ chấp nhận những cơ quan
tài chính có danh tiếng tốt) đã bị thử thách khi nó từ chối cấp
giấy phép cho Ngân hàng Thương mại và Tín dụng Quốc tế
(Bank of Credit and Commerce International – BCCI). Cú lừa đảo
của BCCI ảnh hưởng đến hầu hết mọi trung tâm tài chính lớn
vào thời điểm nó chấm dứt hoạt động. Được thành lập tại
Luxembourg bởi một người Pakistan, cổ đông của ngân hàng
này bao gồm những thành viên của các hoàng gia Ả Rập Saudi,
Bahrain, Abu Dhabi và Dubai. Ngân hàng này có khoảng 400 chi
nhánh hoặc văn phòng ở 73 quốc gia ở châu Âu, Trung Đông,
châu Phi và châu Mỹ. Nó xin giấy phép Ngân hàng Hải ngoại tại
Singapore năm 1973. Chúng tôi từ chối lời thỉnh cầu vì ngân
hàng này quá non trẻ (mới chỉ bắt đầu hoạt động năm 1972) và