định hợp lý. Người Anh vẫn ở lại từ năm 1963 cho đến tháng
2/1984 thì họ trao trả độc lập cho Brunei.
Trong một chuyến viếng thăm Singapore sau khi chúng tôi
tách khỏi Malaysia, ngài Omar cười to với hàng ria mép quắp lên
và cặp mắt ánh lên và nói với tôi: “Bây giờ các anh cũng như
Brunei. Điều đó tốt cho các anh hơn.” Sự thật, chúng tôi chia sẻ
một vài mối quan tâm chung: các nước bé bị các láng giềng lớn
bao quanh. Tôi không thèm muốn sự giàu có của ông, không
bao giờ mượn tiền ông. Tôi chỉ đưa ra lời khuyên khi ông yêu
cầu. Ông tin tưởng tôi.
Vào năm 1967, sau khi Malaysia chấm dứt hệ thống tiền tệ
chung thì các thành viên của nó, Malaysia, Brunei và Singapore,
đã đồng ý đồng tiền mới của chúng tôi có thể được chuyển đổi
ngang giá. Thỏa thuận này kết thúc vào năm 1973, vị quốc
vương sultan già quyết định giữ lại những thỏa thuận này với
đồng tiền Singapore được chuyển đổi ngang giá. Ông là một
sultan thanh đạm nhất, hoàn toàn khác với các sultan khác
trong khu vực. Ông đem lại cho Brunei một ý thức kỷ luật tài
chính và bắt đầu việc tích góp các tài sản khổng lồ được các
nhân viên của quốc vương ở London quản lý.
Khi chính phủ Anh bắt ép ông tiến hành những sửa đổi hiến
pháp hướng về nền dân chủ, thì ông trì hoãn và kéo dài thời
gian bằng cách thoái vị vào năm 1967 và nhường ngôi cho con
trai lớn của ông – Hassanal Bolkiah – khi đó là một chàng trai trẻ
được đào tạo ở Sandhurst. Ông mất nhiều thời gian nghĩ cách
giữ người Anh ở Brunei làm người bảo hộ. Ông từ chối dính líu
về bất cứ điều gì với Indonesia hay Malaysia. Ông nghi ngờ
người Indonesia ủng hộ Azahari, thủ lĩnh đảng Nhân Dân
Brunei cầm đầu cuộc nổi loạn tháng 12/1962. Ông cảnh giác với
người Malaysia vì các sĩ quan Malaysia được phái đến làm việc ở